
Giảm phát thải carbon và thích ứng với biến đổi khí hậu
Việt Nam là quốc gia xuất khẩu gạo hàng đầu thế giới. Năm 2024, xuất khẩu gạo đạt 9 triệu tấn, kim ngạch 5,66 tỷ USD, khẳng định vị thế quan trọng trong chuỗi giá trị nông nghiệp. Tuy nhiên, ngành cũng đối mặt thách thức lớn về môi trường.
Theo Ngân hàng Thế giới, canh tác lúa chiếm 48% tổng lượng phát thải khí nhà kính và hơn 75% lượng phát thải khí metan (CH₄) của ngành nông nghiệp. Do đó, phát triển lúa gạo bền vững, ít phát thải là yêu cầu cấp thiết để thực hiện cam kết quốc tế về biến đổi khí hậu.
Tiên phong trong việc phát triển các mô hình sản xuất lúa xanh, Việt Nam đang thực hiện Đề án Phát triển bền vững 1 triệu ha chuyên canh lúa chất lượng cao và phát thải thấp gắn với tăng trưởng xanh vùng Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) đến năm 2030.
Bên cạnh đó, Việt Nam cũng đang triển khai Dự án VnSAT đã áp dụng kỹ thuật canh tác phát thải thấp trên 180.000 ha. Dự án mới này được kỳ vọng sẽ xác định các cơ chế chính sách và thể chế hiệu quả, hướng tới mục tiêu kép: vừa giảm phát thải carbon và thích ứng với biến đổi khí hậu, vừa nâng cao sinh kế cho người nông dân trồng lúa.
TS. Jongsoo Shin, Giám đốc khu vực châu Á của Viện Nghiên cứu Lúa gạo Quốc tế (IRRI), cho rằng, biến đổi khí hậu đang đặt ra thách thức nghiêm trọng đối với an ninh lương thực toàn cầu. Tuy nhiên, Việt Nam có tiềm năng lớn để tiên phong trong quá trình chuyển đổi xanh của ngành lúa gạo.

Theo ông Trần Ngọc Thạch - Viện trưởng Viện Lúa Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL), chìa khóa để hiện thực hóa mô hình sản xuất lúa phát thải thấp nằm ở “quản lý nước hợp lý và xử lý rơm rạ hiệu quả. Việc tưới tiêu tiết kiệm nước, giảm thiểu tối đa lượng nước ngập úng liên tục trên ruộng lúa không chỉ giúp giảm phát thải khí metan - một loại khí nhà kính có tiềm năng gây hiệu ứng nhà kính gấp nhiều lần so với CO2, mà còn giúp tiết kiệm nguồn tài nguyên nước quý giá. Đồng thời, việc biến rơm rạ từ một phụ phẩm đốt bỏ gây ô nhiễm môi trường thành nguồn phân bón hữu cơ hoặc các sản phẩm có giá trị khác không chỉ giảm phát thải mà còn tăng thêm thu nhập cho nông dân.
Các chính sách hỗ trợ cần cụ thể
Để thúc đẩy mô hình trồng lúa phát thải thấp, theo ông Cao Đức Phát - Chủ tịch HĐQT Viện Nghiên cứu Lúa quốc tế (IRRI), yếu tố then chốt nằm ở việc nâng cao nhận thức và kiến thức của nông dân về lợi ích thiết thực của canh tác bền vững. Chỉ khi thấu hiểu giá trị, người nông dân mới tự nguyện và chủ động áp dụng các biện pháp hiệu quả.
Bên cạnh đó, việc tạo động lực kinh tế rõ ràng là vô cùng quan trọng. Nông dân cần thấy được lợi ích cụ thể, từ việc tăng năng suất, nâng cao thu nhập đến cải thiện chất lượng cuộc sống, để họ sẵn sàng chuyển đổi sang phương pháp canh tác mới. Cùng với đó, cơ sở hạ tầng đồng bộ, đặc biệt là hệ thống giao thông và tưới tiêu thuận lợi, sẽ tạo điều kiện tối ưu để nông dân tiếp cận và triển khai các biện pháp canh tác bền vững một cách dễ dàng.
Sự vào cuộc mạnh mẽ với các chính sách hỗ trợ cụ thể từ Chính phủ và các tổ chức quốc tế đóng vai trò quyết định trong việc khuyến khích cả nông dân và doanh nghiệp tham gia vào các mô hình canh tác tiên tiến này.
Theo đánh giá chung, một trong những dấu ấn lớn nhất của mô hình thí điểm là sự chuyển biến mạnh mẽ về tư duy và nhận thức của cả hệ thống chính trị, người dân về mục tiêu phát triển bền vững ngành hàng lúa gạo Việt Nam. Bà con nông dân đã từng bước thay đổi tập quán canh tác truyền thống, tiếp cận và áp dụng các quy trình sản xuất tiên tiến, thông minh.
Tiền đề quan trọng này để hướng tới xây dựng, hoàn thiện, chuẩn hóa và nhân rộng quy trình canh tác lúa bền vững tại vùng ĐBSCL, đã hình thành các chuỗi sản xuất lúa gạo bền vững. Một số doanh nghiệp lớn tích cực tham gia, hỗ trợ nông dân từ khâu giống, vật tư đầu vào đến bao tiêu sản phẩm đầu ra, bước đầu xây dựng chuỗi liên kết lúa gạo bền vững, minh bạch.