Phát triển nông nghiệp hữu cơ ở Thanh Hóa - Bài cuối: Từ tiềm năng đến chiến lược bền vững

Nông nghiệp hữu cơ đang mở ra cơ hội mới cho Thanh Hóa trong hành trình xây dựng nền nông nghiệp xanh, sạch và bền vững. PV Tạp chí Doanh nghiệp và Kinh tế xanh đã có cuộc trao đổi với ông Đặng Văn Hiệp, Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và Môi trường Thanh Hóa, để hiểu rõ hơn về tiềm năng, thách thức và những chiến lược cụ thể mà tỉnh đang triển khai nhằm đưa nông nghiệp hữu cơ trở thành trụ cột phát triển kinh tế - xã hội trong tương lai.
nong-nghiep-huu-co-1-1748531315.jpg
Ông Đặng Văn Hiệp, Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và Môi trường Thanh Hóa

PV: Ông có đánh giá như thế nào về tiềm năng và thực trạng phát triển nông nghiệp hữu cơ tại Thanh Hóa hiện nay?

Ông Đặng Văn Hiệp: Thanh Hóa có điều kiện thuận lợi để phát triển nông nghiệp hữu cơ nhờ sở hữu 3 vùng sinh thái đặc trưng (miền núi, đồng bằng, ven biển), hệ thống giao thông đa dạng (đường bộ, sắt, biển, hàng không), cảng nước sâu và Khu Kinh tế Nghi Sơn – một trong những khu kinh tế ven biển trọng điểm của cả nước.

Những lợi thế này giúp tỉnh đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp hàng hóa quy mô lớn, ứng dụng công nghệ cao và phát triển nông nghiệp “xanh, sạch, tuần hoàn”. Đặc biệt, UBND tỉnh đã ban hành Đề án phát triển nông nghiệp hữu cơ giai đoạn 2022–2030 với các mục tiêu rõ ràng như: xây dựng vùng sản xuất hữu cơ, phát triển mô hình, ứng dụng công nghệ, đào tạo nguồn nhân lực và mở rộng hệ thống tiêu chuẩn, chứng nhận.

Mục tiêu đến năm 2030, diện tích canh tác hữu cơ đạt khoảng 2% tổng diện tích đất trồng trọt, tập trung vào lúa, rau màu, cây ăn quả; nâng giá trị sản phẩm hữu cơ lên gấp 1,5–1,8 lần so với sản xuất thông thường.

nong-nghiep-huu-co-3-1748531557.jpg
Hiện nay Thanh Hóa đã có 7 mô hình nông nghiệp đạt chuẩn hữu cơ

PV: Ông có thể chia sẻ chiến lược dài hạn của tỉnh để phát triển nông nghiệp hữu cơ trở thành hướng đi chủ lực, tạo lợi thế cạnh tranh bền vững?

Ông Đặng Văn Hiệp: Ngay sau khi Thủ tướng phê duyệt Đề án phát triển nông nghiệp hữu cơ giai đoạn 2020–2030 tại Quyết định số 885/QĐ-TTg ngày 23/6/2020. Ban Thường vụ Tỉnh ủy Thanh Hóa đã ban hành Chỉ thị số 10-CT-TU ngày 16/10/2026 về đẩy mạnh phát triển nông nghiệp sạch, hữu cơ và tuần hoàn; UBND tỉnh Thanh Hóa đã ban hành Quyết định số 3809/QĐ-UBND ngày 07/11/2022 về việc phê duyệt Đề án "phát triển nông nghiệp hữu cơ tỉnh thanh hóa, giai đoạn 2022 - 2030", nhằm cụ thể hóa các mục tiêu và giải pháp theo chỉ đạo của Chính phủ.

Trong thời gian tới, Sở Nông nghiệp và Môi trường sẽ phối hợp với các cơ quan liên quan xây dựng hệ thống cơ chế, chính sách cho giai đoạn 2026–2030 để thúc đẩy phát triển nông nghiệp hàng hóa quy mô lớn, theo hướng “xanh – sạch – tuần hoàn” và thích ứng với biến đổi khí hậu. Chiến lược còn hướng tới việc cung cấp nguồn nguyên liệu chất lượng, ổn định cho công nghiệp chế biến, nhằm nâng cao giá trị gia tăng trong chuỗi sản xuất nông nghiệp của tỉnh.

nong-nghiep-huu-co-4-1748531607.jpg
Lãnh đạo sở Nông nghiệp khảo sát mô hình lúa hữu cơ tại huyện Thọ Xuân

PV: Theo Sở, đâu là những rào cản lớn nhất đang cản trở sự phát triển quy mô và chất lượng của nông nghiệp hữu cơ trên địa bàn, và đâu là nguyên nhân gốc rễ cần được tháo gỡ?

Ông Đặng Văn Hiệp: Trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa, phát triển nông nghiệp hữu cơ hiện vẫn gặp nhiều rào cản. Trước hết là về nhận thức: phần lớn doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ nông dân và người tiêu dùng chưa có đầy đủ hiểu biết về nông nghiệp hữu cơ, dẫn đến tâm lý e ngại khi tham gia sản xuất hoặc tiêu dùng sản phẩm hữu cơ.

Thứ hai, quy mô sản xuất còn nhỏ lẻ, manh mún, chủ yếu mới ở giai đoạn xây dựng mô hình. Sản xuất còn tự phát, chưa hình thành được nhiều chuỗi liên kết để thu hút các thành phần kinh tế tham gia đầu tư, chuyển giao công nghệ trong sản xuất, chế biến và tiêu thụ sản phẩm hữu cơ.

Bên cạnh đó, điều kiện tự nhiên và rủi ro sản xuất cũng là thách thức lớn. Tỉnh có địa hình rộng, phức tạp, nhiều khu vực bị chia cắt, đặc biệt là miền núi. Thời tiết, khí hậu biến đổi khó lường, thiên tai và dịch bệnh thường xuyên xảy ra, ảnh hưởng không nhỏ đến sản xuất hữu cơ vốn yêu cầu điều kiện sinh thái ổn định.

Về nguyên nhân, có thể kể đến như: Chi phí sản xuất cao trong khi thị trường chưa ổn định. Người tiêu dùng khó phân biệt sản phẩm hữu cơ với sản phẩm thông thường, nên chưa sẵn sàng trả giá cao hơn; Chính sách hỗ trợ còn hạn chế, chưa đủ hấp dẫn để thu hút các nhà đầu tư tham gia sản xuất nông nghiệp hữu cơ. Ngoài ra, hạ tầng kỹ thuật chưa đáp ứng yêu cầu, như hệ thống điện, nước, xử lý chất thải... còn thiếu hoặc chưa phù hợp với tiêu chuẩn sản xuất hữu cơ.

Những yếu tố trên đang kìm hãm sự phát triển cả về quy mô lẫn chất lượng của nông nghiệp hữu cơ. Để tháo gỡ, cần sự vào cuộc đồng bộ của các cấp chính quyền, chính sách cụ thể, cũng như sự chuyển đổi nhận thức từ người dân đến doanh nghiệp.

nong-nghiep-huu-co-2-1748531665.jpg
Hội chợ, triển lãm trưng bày sản phẩm đang là kênh quảng bá, tiêu thụ nông sản sạch hiệu quả nhất

PV: Hiện tại, tỉnh đang có những chính sách, mô hình hoặc chương trình hỗ trợ cụ thể nào để khuyến khích và tạo điều kiện cho người dân, hợp tác xã và doanh nghiệp chuyển đổi sang sản xuất hữu cơ?

Ông Đặng Văn Hiệp: Hiện nay, tỉnh Thanh Hóa chưa có cơ chế chính sách đặc thù riêng cho phát triển nông nghiệp hữu cơ theo Nghị định số 109/2018/NĐ-CP ngày 29/8/2018 của Chính phủ. Tuy nhiên, để thúc đẩy phát triển nông nghiệp theo hướng bền vững, chất lượng cao và gắn với xây dựng nông thôn mới, tỉnh đã ban hành nhiều cơ chế, chính sách quan trọng hỗ trợ sản xuất nông nghiệp nói chung, trong đó có thể áp dụng cho nông nghiệp hữu cơ.

Cụ thể, Thanh Hóa đã triển khai Nghị quyết số 192/2019/NQ-HĐND ngày 16/10/2019 về chính sách khuyến khích tích tụ, tập trung đất đai để phát triển sản xuất nông nghiệp quy mô lớn, ứng dụng công nghệ cao. Bên cạnh đó, Nghị định quyết số 185/2021/NQ-HĐND ngày 10/12/2021 về chính sách phát triển nông nghiệp, nông dân, nông thôn giai đoạn 2022–2025 cũng được triển khai nhằm hỗ trợ các tổ chức, cá nhân trong sản xuất, chế biến và tiêu thụ nông sản, bao gồm cả sản phẩm hữu cơ.

Ngoài ra, tỉnh cũng khuyến khích và huy động các nguồn vốn xã hội hóa, thu hút doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp hữu cơ. Các hỗ trợ này không chỉ giúp nông dân, hợp tác xã mở rộng sản xuất mà còn tạo điều kiện để phát triển các chuỗi giá trị từ sản xuất đến chế biến, tiêu thụ, nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm hữu cơ trên thị trường.

Thời gian tới, Thanh Hóa tiếp tục nghiên cứu, đề xuất cơ chế chính sách đặc thù theo định hướng của Chính phủ để đẩy mạnh hơn nữa quá trình chuyển đổi sang nông nghiệp hữu cơ.

PV: Trong xu thế hội nhập và yêu cầu cao từ thị trường quốc tế, Sở có kế hoạch gì để kêu gọi đầu tư, phát triển liên kết chuỗi và hỗ trợ doanh nghiệp đẩy mạnh xuất khẩu sản phẩm nông nghiệp hữu cơ ra nước ngoài?

Ông Đặng Văn Hiệp: Hiện tại, tỉnh Thanh Hóa có khoảng 36 doanh nghiệp tham gia xuất khẩu các sản phẩm nông nghiệp, gồm thủy sản, rau quả, tinh bột sắn, thịt súc sản, lâm sản,... với 12 nhóm mặt hàng đã được đưa ra thị trường quốc tế. Một số sản phẩm tiêu biểu như: tinh bột sắn, chả cá surimi, dứa đóng hộp, ngao đông lạnh, bột cá,... Năm 2023, vải không hạt của Công ty TNHH Nông nghiệp Công nghệ cao Hồ Gươm - Sông Âm được xuất sang Anh, và năm 2024, gạo mang thương hiệu Thanh Hóa của Công ty CP Mía đường Lam Sơn đã vào thị trường Singapore. Hiện, các sản phẩm nông sản của tỉnh được xuất khẩu tới khoảng 30 quốc gia và vùng lãnh thổ, trong đó có các thị trường trọng điểm như Nhật Bản, Hàn Quốc, EU, Mỹ, Úc, Singapore...

Tuy nhiên, phần lớn sản phẩm nông nghiệp hữu cơ và theo hướng hữu cơ vẫn tiêu thụ qua kênh truyền thống như chợ, cửa hàng nhỏ lẻ, chiếm khoảng 85%. Chỉ 15% được đưa vào các chuỗi phân phối hiện đại hoặc liên kết với doanh nghiệp như Vinmart+, Co.opmart, Big C,...

Để thúc đẩy phát triển và xuất khẩu sản phẩm nông nghiệp hữu cơ, tỉnh đã ban hành một số chính sách quan trọng nhằm thu hút doanh nghiệp đầu tư vào sản xuất, chế biến, tiêu thụ sản phẩm hữu cơ theo chuỗi giá trị. Sở Nông nghiệp và Môi trường sẽ tiếp tục phối hợp với các tổ chức quốc tế để mở rộng mô hình sản xuất giảm phát thải khí nhà kính, tạo tín chỉ carbon, trước mắt áp dụng với cây lúa và mía. Song song, tỉnh đẩy mạnh xây dựng các mô hình sản xuất hữu cơ gắn với liên kết chuỗi, khuyến khích doanh nghiệp giữ vai trò nòng cốt trong tổ chức sản xuất, chuyển giao công nghệ, bao tiêu sản phẩm và xây dựng thương hiệu; nâng cao năng lực quản lý chất lượng, an toàn thực phẩm, hướng dẫn các địa phương xây dựng phát triển chuỗi sản phẩm nông sản an toàn, ứng dụng công nghệ cao để từng bước mở rộng thị trường xuất khẩu cho nông sản hữu cơ.

Xin cảm ơn ông!

Đăng ký đặt báo