Phát triển nông nghiệp hữu cơ ở Thanh Hóa - Bài 2: Những bước đi đầu tiên trên hành trình hữu cơ

Dù còn đối mặt với nhiều khó khăn từ thói quen canh tác đến chi phí và đầu ra sản phẩm. Tuy nhiên những mô hình nông nghiệp hữu cơ đầu tiên ở Thanh Hóa vẫn đang từng bước gieo những hạt mầm đổi mới. Không chỉ góp phần thay đổi tư duy mà còn mở ra kỳ vọng về một nền nông nghiệp bền vững.
hanh-trinh-huu-co-1-1748357382.jpg
Hiện nay các sản phẩm chuẩn hữu cơ trên siêu thị vẫn đang ở mức hạn chế 

Gieo mầm từ những mô hình tiên phong

Nông nghiệp hữu cơ không còn là điều gì xa lạ hay chỉ mang tính lý thuyết, mà đang dần trở thành hiện thực trên đất Thanh Hóa – nơi có nhiều điều kiện thuận lợi cho sản xuất nông nghiệp. Tính đến nay, tỉnh đã có 7 đơn vị và nhóm hộ được cấp chứng nhận đạt chuẩn Việt Nam về nông nghiệp hữu cơ trong lĩnh vực trồng trọt, với tổng diện tích khoảng 15,46 ha. Dù quy mô chưa lớn, nhưng các mô hình này đóng vai trò mở đường, tạo nền tảng cho hướng đi mới: sản xuất nông nghiệp an toàn, lâu dài và thân thiện với môi trường.

Trong số đó, có thể kể đến Công ty TNHH MTV Dịch vụ thương mại nông nghiệp công nghệ cao Thiên Trường 36 ở huyện Đông Sơn, chuyên trồng rau ăn quả và các loại dưa trên hơn 1,2 ha, đã được cấp chứng nhận hữu cơ. Trang trại Nguyễn Xuân ở huyện Yên Định cũng là điểm sáng, với 7 ha trồng bưởi Diễn hữu cơ, mỗi năm thu hoạch khoảng 250 tấn quả. Tại huyện Thạch Thành, một số nhóm sản xuất như Cẩm Bộ, Đầm Hương, Sồi Cốc… đang làm tốt với những loại nông sản như hành, tỏi, lúa nếp hạt cau – giống lúa đặc sản của địa phương. Những mô hình này không chỉ cho ra sản phẩm sạch, mà còn cho thấy người nông dân đang thay đổi dần cách nghĩ, cách làm trong sản xuất.

Ngoài những đơn vị đã được chứng nhận, Thanh Hóa hiện có hơn 5.700 ha cây trồng được sản xuất theo hướng hữu cơ. Trong đó, nhiều nhất là diện tích trồng lúa với hơn 4.400 ha; tiếp đến là cây ăn quả, rau đậu, chè, cây dược liệu và một số loại khác. Phần lớn diện tích này đang trong giai đoạn chuyển đổi từ cách làm truyền thống sang hữu cơ. Một số mô hình đang được mở rộng, như vùng lúa – cá ở xã Hà Lĩnh (Hà Trung) hơn 300 ha; mô hình lúa – rươi ở Quảng Xương, Nông Cống; bưởi hữu cơ Mộc Ân tại xã Yên Thọ (Yên Định) với 16 ha; hay mô hình rau hữu cơ trong nhà lưới của Công ty Thiên Trường 36 ở Đông Sơn và vùng rau Son – Bá – Mười huyện Bá Thước...

hanh-trinh-huu-co-2-1748357482.jpg
Trang trại bưởi diễn hướng đến hữu cơ của ông Lê Xuân Hoằng (xã Ngọc Phụng, huyện Thường Xuân)

Nhiều địa phương cũng đã áp dụng công nghệ cao như nhà kính, nhà màng để trồng rau, hoa, quả với tổng diện tích hơn 235 ha, giúp nâng cao năng suất và chất lượng. Tỉnh cũng đang đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp thông minh thích ứng với biến đổi khí hậu trên hơn 6.900 ha lúa ở Yên Định, Thiệu Hóa và khoảng 1.400 ha rau.

Những kết quả này cho thấy nông nghiệp hữu cơ ở Thanh Hóa đang từng bước đi vào thực tiễn, không còn là khái niệm xa vời. Hướng đi này không chỉ giúp nâng cao giá trị kinh tế mà còn góp phần bảo vệ môi trường, giữ gìn hệ sinh thái và có thể mở ra tiềm năng phát triển du lịch sinh thái – nông nghiệp trong tương lai.

Thanh Hóa xác định phát triển nông nghiệp hữu cơ là một phần trong kế hoạch tái cơ cấu ngành nông nghiệp, với mục tiêu tăng giá trị và phát triển bền vững, phù hợp với điều kiện của từng vùng. Hướng đi này cũng ăn khớp với xu hướng tiêu dùng hiện nay – khi người tiêu dùng trong và ngoài nước ngày càng quan tâm đến nguồn gốc, chất lượng và độ an toàn của thực phẩm.

Thách thức và kỳ vọng tương lai

Dù đã có những bước khởi đầu đáng ghi nhận, nhưng con đường phát triển nông nghiệp hữu cơ ở Thanh Hóa vẫn còn không ít khó khăn. Trở ngại đầu tiên là nhiều người dân, hợp tác xã, doanh nghiệp, thậm chí cả người tiêu dùng vẫn chưa hiểu rõ nông nghiệp hữu cơ là gì.

hanh-trinh-huu-co-3-1748357591.jpg
Mô hình Sản xuất lúa hữu cơ của gia đình ông Phan Trọng Đông ở thôn Hợp Nhất, xã Tế Nông (Triệu Sơn) thực hiện 3 vụ gần đây. Năng suất trung bình từ 2,7 đến 3 tạ/sào.

Chị Nguyễn Thị Hạnh, một khách hàng thường xuyên mua nông sản tại các cửa hàng thực phẩm sạch ở TP. Thanh Hóa, chia sẻ: “Tôi cũng nghe nhiều về thực phẩm hữu cơ, nhưng thú thật là khó phân biệt vì nhìn bên ngoài không khác mấy so với rau sạch hay rau thông thường. Giá thì cao hơn, mà không phải lúc nào cũng có sẵn để mua. Nếu có thông tin rõ ràng hơn và dễ tiếp cận hơn, chắc chắn tôi sẽ ưu tiên lựa chọn sản phẩm hữu cơ cho gia đình”.

Không chỉ chị Hạnh, mà nhiều người hiện nay vẫn còn nhầm lẫn giữa sản phẩm hữu cơ và sản phẩm sạch hay sản phẩm an toàn. Bên cạnh đó, lợi ích lâu dài từ việc làm hữu cơ vẫn chưa được nhìn nhận đầy đủ, trong khi thị trường tiêu thụ sản phẩm lại thiếu ổn định, chưa tạo ra sự khác biệt rõ về giá bán. Điều này khiến cho việc áp dụng phương thức sản xuất hữu cơ trở nên khó khăn, không chỉ đối với người tiêu dùng mà còn đối với người sản xuất.

Ông Trịnh Đúc Hùng, Phó Trưởng Phòng Nông nghiệp và Môi trường huyện Thiệu Hóa, chia sẻ: “Làm hữu cơ không dễ, vì phải kiên trì và đầu tư dài hơi. Phần lớn bà con vẫn quen cách làm cũ, nên khi chuyển sang hữu cơ – không dùng phân hóa học, thuốc trừ sâu – thì sâu bệnh nhiều hơn, năng suất lại giảm. Thêm nữa, chưa có đầu ra ổn định khiến người dân dễ nản. Trong khi đó, chi phí để đạt chứng nhận hữu cơ lại khá cao, vượt quá khả năng của nhiều hộ nhỏ lẻ.”

hanh-trinh-huu-co-4-1748357679.jpg
Gian hàng nấm chuẩn hữu cơ của anh Lê Đình Trúc, xã Yên Thọ (Như Thanh) tại Hội chợ

Hiện nay, sản xuất hữu cơ ở Thanh Hóa vẫn chủ yếu là các mô hình thử nghiệm, diện tích nhỏ, tự phát là chính. Tỷ lệ đất làm hữu cơ còn rất thấp so với tổng diện tích đất nông nghiệp. Các chuỗi liên kết từ sản xuất đến chế biến, tiêu thụ gần như chưa hình thành rõ. Doanh nghiệp mạnh để dẫn dắt cũng chưa nhiều. Nguồn vốn đầu tư và các chính sách hỗ trợ vẫn chưa đủ hấp dẫn để thu hút doanh nghiệp. Cơ sở hạ tầng phục vụ cho sản xuất hữu cơ – như cấp nước, xử lý chất thải, giao thông nội đồng – còn thiếu, nhất là ở vùng sâu, vùng xa.

Bên cạnh đó, thời tiết ngày càng khó lường, biến đổi khí hậu khiến sản xuất nông nghiệp gặp nhiều áp lực, nhất là với mô hình hữu cơ – vốn không dùng thuốc bảo vệ thực vật tổng hợp. Dịch bệnh, sâu hại tăng khiến nhiều người lo ngại không dám chuyển đổi. Trong khi đó, giá sản phẩm hữu cơ cao hơn sản phẩm thông thường, nhưng người tiêu dùng vẫn chưa thực sự sẵn sàng bỏ thêm tiền, khiến việc tiêu thụ gặp khó, ảnh hưởng đến sự ổn định của mô hình.

Tuy vậy, tiềm năng phát triển nông nghiệp hữu cơ ở Thanh Hóa vẫn rất lớn. Nếu chính quyền, doanh nghiệp, nhà khoa học và người dân cùng vào cuộc, thì nông nghiệp hữu cơ có thể đi xa hơn. Những việc cần làm là hoàn thiện pháp lý, xây dựng hệ thống kiểm soát, truy xuất nguồn gốc rõ ràng, mở rộng thị trường trong và ngoài nước. Cùng với đó, cần có chính sách cụ thể – như hỗ trợ vay vốn, đầu tư hạ tầng, chi phí chứng nhận, quảng bá sản phẩm – để giảm bớt gánh nặng cho người sản xuất.

Điều quan trọng nhất là thay đổi cách làm nông nghiệp – từ nhỏ lẻ, tự phát sang sản xuất theo vùng, có quy hoạch, ứng dụng công nghệ và tổ chức theo chuỗi giá trị. Khi người nông dân tin vào lợi ích bền vững của nông nghiệp hữu cơ, họ sẽ mạnh dạn thay đổi và không còn đơn độc trên hành trình này.

Từ những mô hình tiên phong ban đầu, nếu có định hướng và hỗ trợ đúng cách, có thể tin rằng nông nghiệp hữu cơ ở Thanh Hóa sẽ không còn là lựa chọn của số ít, mà sẽ trở thành hướng phát triển lâu dài – mang lại giá trị xanh, sạch, bền vững cho cả người dân và địa phương.

Bài 3: Đột phá chính sách và liên kết thị trường

Đăng ký đặt báo