Mô hình nuôi động vật hoang dã doanh thu tiền tỷ tại vùng ven đô

Từ mô hình nhỏ lẻ tại xã Phượng Dực (Hà Nội), gia đình chị Nguyễn Thị Lệ đã phát triển trang trại chăn nuôi dúi, tắc kè, chồn hương theo hướng hiện đại, kỹ thuật cao, mang về nguồn thu tiền tỷ mỗi năm.

Phát triển kinh tế từ mô hình nuôi dúi

Trong bối cảnh nhiều mô hình chăn nuôi truyền thống gặp khó khăn bởi dịch bệnh, giá cả bấp bênh và áp lực thị trường, một số nông hộ đã tìm ra hướng đi mới: nuôi động vật hoang dã theo hướng hiện đại và kỹ thuật cao. Ở xã Phượng Dực (Hà Nội) gia đình chị Nguyễn Thị Lệ đã biến ý tưởng này thành hiện thực. Hơn mười năm trước, gia đình chị Nguyễn Thị Lệ vẫn gắn bó với đàn lợn, đàn gà như bao hộ nông dân khác. Nhưng những đợt dịch cúm gia cầm, lở mồm long móng và giá thức ăn tăng liên tục khiến thu nhập bấp bênh. “Nuôi lợn, nuôi gà ngày đó vất vả lắm, chỉ một đợt dịch là coi như trắng tay”, chị Lệ nhớ lại.

Cơ duyên đến khi người thân trong gia đình từng thưởng thức thịt dúi trong thời gian đi bộ đội và nhận thấy đây là món đặc sản có giá trị kinh tế cao. “Lúc đó nhà chỉ mua thử vài con dúi về nuôi xem sao. Không ngờ chúng dễ nuôi, ít bệnh, ăn toàn đồ có sẵn ở quê. Thế là tôi mới nghĩ, tại sao không làm lớn luôn?” chị kể.

z6901631220415-58ecb7dacd95e744e3df4480e71eff34-1755075051.jpg

Chuồng nuôi dúi được bố trí hợp lý, đảm bảo thông thoáng mùa hè và giữ ấm hiệu quả khi đông về (Ảnh: Khánh Ly) 

Từ vài ô chuồng nhỏ ban đầu, đến năm 2014 chị quyết định đầu tư bài bản, chuyển sang chăn nuôi dúi chuyên nghiệp. Hiện đàn dúi của trang trại dao động từ 500 đến 1.000 con, được nuôi trong hệ thống chuồng cao 3–3,5 mét, vừa thoáng mát mùa hè, vừa ấm áp mùa đông. Thức ăn hoàn toàn là nông sản sạch như mía, ngô, khoai, sắn. “Quan trọng là thức ăn phải sạch, không dùng đồ ôi thiu hay có chất bảo quản. Dúi uống rất ít nước, thường lấy đủ từ ngô non và mía ngọt”,  chị nhấn mạnh.

z6901631232144-a75494dd11fd3b189c898500e845b81e-1755075069.jpg

Kỹ thuật chăm sóc kỹ lưỡng và nắm vững đặc điểm sinh học của dúi góp phần đảm bảo chất lượng và hiệu quả chăn nuôi bền vững (Ảnh: Khánh Ly) 

Mỗi ngày, công việc chăm sóc chỉ mất khoảng 30 phút đến 1 tiếng, bao gồm kiểm tra sức khỏe, cho ăn và vệ sinh chuồng trại. Tuy thời gian bỏ ra không nhiều, nhưng người nuôi phải am hiểu tập tính và bệnh lý của dúi. “Chúng ít bệnh, không gây dịch như lợn, gà, nhưng nếu không nắm rõ đặc tính thì năng suất và chất lượng sẽ giảm”, chị Lệ nói.

z6901631223557-6778ebacb6170d787dcbd3a921f53bef-1755075061.jpg

Dúi được chăm sóc trong môi trường lý tưởng, sẵn sàng cung cấp cho thị trường những sản phẩm đặc sản chất lượng cao (Ảnh: Khánh Ly)

Mô hình nuôi dúi hiện mang lại thu nhập ổn định, với lợi nhuận từ 18–20 triệu đồng mỗi lứa nuôi sau khi trừ chi phí. Dúi thương phẩm được bán với giá 950.000 đồng/kg cho nhà hàng và thương lái, trong khi dúi giống cũng rất được ưa chuộng. Chị Lệ cho biết: "Ngày càng nhiều người tìm đến các sản phẩm sạch. Dúi ít rủi ro, không lo dịch bệnh như lợn, gà, và ai cũng có thể nuôi thành công nếu nắm vững kỹ thuật”. 

Cơ hội phát triển cho nông dân

Không dừng lại ở dúi, chị Lệ mở rộng sang nuôi chồn mốc, chồn hương và đặc biệt là 10.000 con tắc kè gai đen miền Bắc. Với khoảng 2.000 con tắc kè mẹ sinh sản, mỗi con mang lại từ 1 đến 2 triệu đồng mỗi năm. Tổng doanh thu từ tắc kè đạt từ 2 đến 4 tỷ đồng, lợi nhuận ròng chiếm tới 60–70% do chi phí thức ăn thấp. “Tắc kè ăn toàn dế, châu chấu, giun – những thứ sẵn có ở quê, chẳng tốn bao nhiêu tiền mà chúng lớn nhanh, khỏe mạnh”, chị Lệ chia sẻ.

z6901631206675-72c29e9aa7091a0663ad7032d0d3caaf-1755075076.jpg

Trang trại áp dụng phương pháp nuôi tắc kè gai đen miền Bắc hiện đại, tối giản công chăm sóc mà vẫn đạt giá trị kinh tế lớn (Ảnh: Khánh Ly) 

“Tắc kè có tuổi thọ lên đến 10 năm và nhu cầu sử dụng ngày càng cao. Với giá trị bền vững của nó, tắc kè là loài động vật có tiềm năng kinh tế lâu dài”, chị nói thêm. Loài này cũng ít bệnh, khi mắc bệnh chỉ chết rải rác vài cá thể, không ảnh hưởng đến cả đàn. Điều này khiến việc nuôi tắc kè trở thành lựa chọn an toàn, chi phí đầu tư thấp nhưng hiệu quả lâu dài.

Nếu tính gộp cả ba loại vật nuôi – dúi, tắc kè, chồn – tổng thu nhập hàng năm của gia đình chị Lệ có thể đạt từ 2,5 đến 3 tỷ đồng. Với mức chi phí vận hành không lớn, mô hình này đem lại tỷ suất lợi nhuận thuộc nhóm cao trong ngành chăn nuôi nông hộ, đồng thời tạo việc làm thời vụ cho một số lao động địa phương.

Ngoài lợi nhuận từ mô hình nuôi dúi, chị Lệ tự hào vì có thể giúp đỡ nhiều người khác tạo dựng nguồn thu nhập ổn định. Chị chia sẻ: “Chị muốn nhân rộng mô hình này, chia sẻ kinh nghiệm cho bà con ở vùng quê biết đến loài động vật hoang dã này. Nếu bà con đến đây, chỉ cần nguồn thức ăn sẵn có, gia đình chị sẽ hỗ trợ vốn và chia sẻ kinh nghiệm để họ dễ dàng thành công hơn”. 

Anh Trần Văn Hùng, một hộ nông dân cùng xã, là người học theo mô hình của chị Lệ từ năm 2021. Anh Hùng kể: “Ban đầu tôi chỉ nuôi thử 50 con dúi giống do chị Lệ hỗ trợ. Nhờ được hướng dẫn kỹ thuật chuồng trại, chọn thức ăn, chỉ sau hơn một năm tôi đã nhân đàn lên gấp ba. Thu nhập từ dúi và tắc kè giờ ổn định hơn nuôi gà, lợn rất nhiều. Đặc biệt là không phải lo dịch bệnh lớn”. Anh Hùng cũng cho biết thêm, gia đình anh đang dự định mở rộng quy mô và sẽ thử nghiệm nuôi chồn hương trong năm tới.

Chia sẻ thêm về những kinh nghiệm áp dụng mô hình hiệu quả, chị Lệ nhấn mạnh bà con cần tìm hiểu kỹ trước khi chăn nuôi, không nên làm theo người khác vội vàng. Mỗi khu vực có điều kiện khác nhau, nên chọn phương thức nuôi phù hợp. 

Chị Lệ cũng cho rằng nông dân cần học hỏi từ người có kinh nghiệm. Để tìm mua giống dúi cần chọn trại uy tín, tránh mua giống trôi nổi hoặc từ rừng vì sẽ gặp khó khăn trong việc thuần hóa và chất lượng không đảm bảo.

Hiện nay, trang trại của chị Lệ đã trở thành điểm đến cho các đoàn từ nhiều tỉnh thành đến tham quan, học hỏi. Chính quyền địa phương đánh giá đây là mô hình tiêu biểu để nhân rộng, góp phần tạo sinh kế bền vững cho nông dân, giảm áp lực khai thác động vật hoang dã ngoài tự nhiên và mở ra hướng phát triển kinh tế nông thôn mới./.

 

Đăng ký đặt báo