Phát triển kinh tế tuần hoàn trong chăn nuôi còn nhiều khó khăn, thách thức

Theo các chuyên gia, những năm qua, ngành chăn nuôi phát triển mạnh về quy mô, mang lại những giá trị lớn về kinh tế. Tuy nhiên, cũng kéo theo các hệ lụy về ô nhiễm môi trường… cùng với việc các phụ phẩm trong chăn nuôi chưa được tái sản xuất trong các lĩnh vực khác.

Thời gian qua, ngành chăn nuôi ghi nhận bước tăng trưởng mạnh về đàn vật nuôi và sản lượng vật nuôi. Tính đến hiện tại, số lượng đàn lợn đạt hơn 28,8 triệu con, đàn trâu bò đạt hơn 8,9 triệu con, đàn gia cầm đạt 533 triệu con. Sản lượng thịt, trứng, sữa cơ bản đáp ứng nhu cầu tiêu thụ nội địa và xuất khẩu. Giá trị toàn ngành chăn nuôi năm 2022 ước đạt 23,7 tỷ USD.

Chia sẻ về vấn đề này, tại Diễn đàn “Kinh tế tuần hoàn trong ngành chăn nuôi: Cơ hội và thách thức” do Báo Nông nghiệp Việt Nam phối hợp Cục Chăn nuôi, Tổ điều hành Diễn đàn kết nối 970 (Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn - NN&PTNT) tổ chức sáng 21/3, TS. Võ Trọng Thành, đại diện Cục Chăn nuôi cho biết: “Với xu hướng tăng trưởng như hiện nay, số lượng đàn vật nuôi lớn có tác dộng nhất định đối với môi trường. Câu hỏi đặt ra là làm thế nào để chúng ta xử lý vấn đề môi trường”.

Trong bối cảnh ấy, việc sản xuất theo chuỗi để tích hợp đa giá trị là hướng đi bền vững góp phần tái cơ cấu ngành chăn nuôi. Sản xuất theo chuỗi tuần hoàn góp phần tạo nên nền nông nghiệp sinh thái, giảm phát thải ròng bằng 0 vào 2050.

Theo đó, để đảm bảo về vấn đề môi trường, TS. Thành nhấn mạnh, cần một số yêu cầu đối với ngành chăn nuôi theo hướng kinh tế tuần hoàn bao gồm: Hoạt động chăn nuôi cần tạo ra hiệu quả kinh tế, giảm phát thải; Phải có chính sách ưu đãi thu hút doanh nghiệp đầu tư; Kết nối được các mô hình kinh tế tuần hoàn (KTTH) trong chuỗi giá trị nông sản; Phải có công cụ đánh giá việc sử dụng, xử lý chất thải chăn nuôi và phụ phẩm nông nghiệp...

chan-nuoi-bo-sua-1679391454.jpg
Phát triển kinh tế tuần hoàn trong chăn nuôi còn nhiều khó khăn thách thức. Ảnh minh họa

Ở khía cạnh khác, TS. Nguyễn Anh Phong, Giám đốc Trung tâm Thông tin thuộc Viện Chính sách và Chiến lược phát triển nông nghiệp, nông thôn (Bộ NN&PTNT), cho rằng, đối với phát triển và nhân rộng KTTH trong nông nghiệp, Việt Nam đang đối mặt với một số thách thức, nhất là về nhận thức.

Theo ông Phong, nhận thức đối với KTTH tại quy mô doanh nghiệp nhỏ và vừa, doanh nghiệp siêu nhỏ ở nông thôn, các hợp tác xã nhìn chung còn sơ khai, tâm lý ngại rủi ro; mức đầu tư cho các mô hình tái chế lớn, trong khi khung luật pháp hiện nay cũng chưa hoàn thiện…

Trên cơ sở phân tích những hạn chế trên, đại diện IPSARD đưa ra một số giải pháp. Thứ nhất, cần xây dựng hành lang pháp lý và tiêu chuẩn hóa KTTH trong lĩnh vực nông nghiệp, trong đó hoàn thiện cơ chế chính sách để đưa ra quy chuẩn sản xuất và thương mại hóa; Thứ hai, xây dựng cơ chế, chính sách khuyến khích, ưu đãi cho các đối tượng doanh nghiệp, hợp tác xã sản xuất áp dụng công nghệ về KTTH. Thứ ba, cần thúc đẩy liên kết, hợp tác trong nghiên cứu, ứng dụng và chuyển giao công nghệ trong nước và quốc tế. Thứ tư, cần xây dựng chiến lược truyền thông ở các cấp, gắn với các hoạt động khuyến nông. Thứ năm là Thúc đẩy số hóa và xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu, phân tích dữ liệu về KTTH.

Còn theo ông Hà Văn Thắng, Chủ tịch Hội đồng Doanh nghiệp Nông nghiệp Việt Nam cho rằng, KTTH không phải một mô hình lựa chọn mà là tất yếu. “KTTH là nền tảng của phát triển bền vững, nền tảng của kinh tế xanh. Chính vì vậy, chúng ta không nên tách bạch nhiều quá. KTTH là kết quả của mô hình sản xuất, kinh doanh và dịch vụ tuần hoàn, các mô hình này không bị trói buộc bởi 1 khuôn mẫu nên tìm tiêu chí, quy định cứng nhắc cho mô hình KTTH là rào cản khiến cho tính lan tỏa hạn chế”, ông Thắng nhận định.

Theo đại diện Hội Doanh nghiệp Nông nghiệp Việt Nam, mô hình sản xuất, kinh doanh, dịch vụ tuần hoàn không bị trói buộc mà tùy thuộc vào điều kiện thực tế của mỗi tổ chức, nông hộ, ở đây tư duy thiết kế là quan trọng nhất.

Trong khuôn khổ diễn đàn, Chủ tịch Hội đồng Doanh nghiệp Nông nghiệp Việt Nam Hà Văn Thắng kiến nghị các cơ quan quản lý nhà nước nghiên cứu quy định hàng lang pháp lý, khuôn khổ pháp lý cho đổi mới sáng tạo (ĐMST) để ĐMST thực sự đi vào đời sống xã hội, có cơ chế cho câu chuyện thí điểm, thử nghiệm, đánh giá và tổng kết các mô hình ĐMST.

Bên cạnh đó, ông Thắng cũng kiến nghị cần có những chính sách phục vụ doanh nghiệp, nông hộ xử lý chất thải chăn nuôi để thí điểm, đánh giá, từ đó lan tỏa mô hình. Ông cũng đề nghị các cơ quan nhà nước, tổ chức tiếp tục hỗ trợ phát triển các mô hình cho các trung tâm vùng lõi do các doanh nghiệp dẫn dắt.

Nhìn chung, các đại biểu đều cho rằng, cần xây dựng hành lang pháp lý và tiêu chuẩn hóa kinh tế tuần hoàn trong lĩnh vực nông nghiệp, trong đó hoàn thiện cơ chế, chính sách để đưa ra quy chuẩn sản xuất và thương mại hóa. Ngoài ra, cần thúc đẩy liên kết, hợp tác trong nghiên cứu, ứng dụng và chuyển giao công nghệ trong nước và quốc tế. Các cơ sở chăn nuôi cần chú trọng ngay từ các khâu đầu vào (thức ăn, vệ sinh môi trường…) để bảo đảm sản phẩm sạch ngay từ quá trình sản xuất. Các đơn vị phân phối, tiêu thụ sản phẩm ra thị trường cũng phải tham gia chuỗi tuần hoàn này./.

Đông Nghi