Bất bình đẳng số - Lằn ranh vô hình chia cắt xã hội (Bài cuối): Để không ai bị bỏ lại phía sau

Thanh Hóa đang đẩy mạnh chuyển đổi số, nhưng cùng với nhịp phát triển ấy là một khoảng cách âm thầm hình thành trong cộng đồng. Nhiều người lớn tuổi, bà con vùng núi hay công nhân ngoài 40 tuổi vẫn lúng túng với các ứng dụng và thủ tục trực tuyến, dễ bị chậm nhịp chỉ vì chưa quen công nghệ. Từ đó cho thấy chuyển đổi số chỉ thật sự ý nghĩa khi công nghệ giúp mọi người tiếp cận dễ dàng hơn, chứ không trở thành rào cản khiến một bộ phận bị bỏ lại phía sau.
bat-binh-dang-so-bai-cuoi-1-1764691210.png
Số hóa giúp đơn giản thủ tục hành chính chứ không phải rào cản khiến một số bộ phận bị bỏ lại phía sau

Người dân phải là chủ thể, không phải chỉ tiêu

Chuyển đổi số (CĐS) tại Thanh Hóa thời gian qua diễn ra với tốc độ nhanh, nhưng vẫn chịu áp lực chạy theo thành tích, đặc biệt là các “chỉ tiêu số lượng” hồ sơ trực tuyến. Nhiều cán bộ từ chỗ hướng dẫn đã phải làm thay cho người dân để kịp tiến độ, khiến mục tiêu cốt lõi của CĐS là nâng cao năng lực và quyền tự chủ của người dân chưa được phát huy. Tình trạng này đặc biệt rõ ràng ở các xã vùng sâu, nơi người dân lớn tuổi và thu nhập thấp còn chưa quen với công nghệ.

Ông Nguyễn Huy Minh, Trưởng phòng Văn hóa xã Trung Chính, chia sẻ: “Chúng tôi muốn hướng dẫn người dân làm thủ tục trực tuyến, nhưng nhiều người vẫn còn lúng túng, thao tác chậm, nên cán bộ xã thường phải hỗ trợ trực tiếp. Nếu để họ tự mò mẫm, chắc chắn sẽ mất rất nhiều thời gian và dễ nản lòng, thậm chí nhập liệu chưa chắc đã đúng.”

bat-binh-dang-so-bai-cuoi-1-1764691352.jpg
Thành viên Tổ công nghệ số cộng đồng hướng dẫn người dân thao tác trên các ứng dụng và dịch vụ trực tuyến.

Không chỉ người dân gặp khó khăn, cán bộ xã cũng phải đối mặt với áp lực kép. Khối lượng công việc nhiều, họ đảm nhận nhiều nhiệm vụ khác nhau, vừa phải hoàn thành tiến độ hồ sơ theo chỉ tiêu, vừa phải hướng dẫn kỹ lưỡng để người dân thực hiện đúng các thủ tục và sử dụng dịch vụ một cách hiệu quả.

Ông Cao Văn Công, Trưởng phòng Văn hóa xã Quang Chiểu, cho biết: “Ở địa phương, phần lớn là đồng bào dân tộc thiểu số, trình độ dân trí không đồng đều. Một số thôn, bản mới phổ cập xong tiểu học, nên việc tiếp cận và sử dụng các dịch vụ công trực tuyến là một thách thức lớn. Chúng tôi phải hướng dẫn từng bước, từng thao tác để họ làm đúng, nhưng vẫn tốn nhiều thời gian và công sức. Nhiều khi vừa hướng dẫn họ xong hôm nay, hôm sau họ lại phải nhờ cán bộ hướng dẫn lại từ đầu.”

Ngoài ra, hạ tầng viễn thông tại một số thôn, bản ở các xã vùng cao cũng đang là một thách thức lớn. Mặc dù độ phủ sóng Internet đã được cải thiện, nhưng nhiều nơi vẫn chưa có đường truyền ổn định hoặc tốc độ đủ để thao tác trực tuyến mượt mà.

bat-binh-dang-so-bai-cuoi-2-1764691443.JPG
Cán bộ, nhân viên Bệnh viện Đa khoa Mường Lát hướng dẫn người dân sử dụng các ứng dụng và dịch vụ trực tuyến.

Ông Phạm Thành Lương, Phó Bí thư Đảng ủy xã Na Mèo, cho biết: “Nhiều người dân muốn làm nhưng Internet yếu, thao tác liên tục bị lỗi. Chúng tôi phải kiên nhẫn hướng dẫn, đôi khi còn nhờ người thân hỗ trợ. Nếu không có sự hỗ trợ liên tục, họ rất khó tự làm được. Thậm chí nhiều bản ở xã còn không có sóng, nên việc thực hiện các dịch vụ công trực tuyến gần như không thể.”

Kinh tế cũng là một rào cản quan trọng. Không phải hộ gia đình nào cũng có điện thoại thông minh, máy tính hay đủ điều kiện để duy trì Internet 4G ổn định. Với các hộ thu nhập thấp, việc mua thiết bị hoặc trả phí data là một gánh nặng. Vì vậy, một phần người dân vẫn bị loại khỏi quá trình số hóa, dù về mặt chính sách họ vẫn có quyền tiếp cận dịch vụ công.

Thực trạng này dẫn đến một ranh giới số vô hình trong xã hội. Người trẻ, quen sử dụng công nghệ, tiếp cận dịch vụ nhanh chóng và thuận tiện, còn nhóm yếu thế phải dựa vào sự hỗ trợ liên tục.

bat-binh-dang-so-bai-cuoi-2-1764691519.png
Bản Con Dao, một trong 3 bản của xã Quang Chiểu nằm trong vùng lõm về sóng

Chia sẻ về những vướng mắc này, ông Nguyễn Xuân Linh, Phó Chủ tịch phụ trách văn hóa xã Thanh Kỳ, thẳng thắn: “Đây không chỉ là vấn đề kỹ thuật, mà còn là vấn đề xã hội và nhân văn. Chúng tôi phải tìm cách để người dân ở mọi lứa tuổi và hoàn cảnh đều có thể tiếp cận dịch vụ công số một cách bình đẳng.”

Những khó khăn này không thể giải quyết chỉ bằng việc đẩy mạnh số lượng hồ sơ trực tuyến. Cần có sự kiên nhẫn, hỗ trợ bài bản, hạ tầng phù hợp và thiết kế dịch vụ thân thiện, để chuyển đổi số trở thành công cụ thực sự giúp người dân tự chủ và nâng cao năng lực, thay vì trở thành rào cản khiến một bộ phận bị bỏ lại phía sau.

Đào tạo kỹ năng để công nhân không bị bỏ lại

Sự phát triển nhanh chóng của tự động hóa tại các khu công nghiệp như Nghi Sơn, Bỉm Sơn đang đặt ra thách thức lớn với sinh kế của hàng nghìn công nhân lớn tuổi. Khi máy móc thay thế con người trong nhiều khâu sản xuất, những lao động chưa có kỹ năng số hoặc chưa quen với công nghệ dễ rơi vào tình trạng bị “đào thải số”.

Theo Phó giáo sư Tô Thế Nguyên, Giảng viên Đại học Kinh tế, Đại học Quốc gia Hà Nội: “Tự động hóa và chuyển đổi số đang tạo ra áp lực lớn với lao động lớn tuổi tại các khu công nghiệp. Nếu không có chương trình đào tạo phù hợp, nhiều công nhân sẽ bị tụt lại phía sau, đối diện nguy cơ thất nghiệp hoặc giảm năng suất nghiêm trọng. Việc thành lập các quỹ hỗ trợ kỹ năng, kết hợp với cơ chế khuyến khích doanh nghiệp đầu tư cho đào tạo lại lao động, là một hướng đi hiệu quả để vừa duy trì năng lực lao động, vừa giúp công nhân thích nghi với thay đổi công nghệ.”

bat-binh-dang-so-bai-cuoi-4-1764691629.jpg
Nhiều công nhân lớn tuổi đang đối mặt với nguy cơ bị “đào thải số” ngày càng lớn.

Để ứng phó với thực trạng này, theo Phó giáo sư Tô Thế Nguyên, Thanh Hóa nên cân nhắc triển khai các chính sách phối hợp giữa Chính quyền và doanh nghiệp. Một hướng đi khả thi là thành lập Quỹ Hỗ trợ Chuyển đổi Kỹ năng dành cho lao động trên 40 tuổi bị ảnh hưởng bởi tự động hóa, với sự đóng góp từ các doanh nghiệp hưởng lợi từ chuyển đổi số. Đồng thời, cơ chế khuyến khích doanh nghiệp dành một phần quỹ lương, khoảng 1-2%, để đào tạo lại công nhân lớn tuổi sẽ giúp họ thích nghi với công nghệ mới, hạn chế sa thải hoặc cắt giảm nhân sự.

Bên cạnh đó, các trường nghề và trung tâm giáo dục thường xuyên cần điều chỉnh giáo trình theo hướng thực hành và ứng dụng. Nội dung học tập nên tập trung vào kỹ năng vận hành, bảo trì máy móc, kỹ năng số cơ bản và chuyển đổi nghề nghiệp. Cần giảm lý thuyết, tăng thực hành, áp dụng phương pháp giảng dạy linh hoạt và kiên nhẫn phù hợp với học viên lớn tuổi. Đây là cách giúp công nhân nhanh chóng thích nghi với thay đổi công nghệ và duy trì năng lực lao động.

Nhóm lao động trong kinh tế phi chính thức cũng cần được hỗ trợ. Việc tổ chức các lớp học miễn phí về thương mại điện tử, bán hàng online, livestream hay kỹ năng chụp ảnh sản phẩm giúp họ tiếp cận các công cụ số, tăng thu nhập và chủ động trong kinh doanh. Kết hợp với các chương trình vay vốn ưu đãi từ ngân hàng chính sách, người nông dân và tiểu thương có thể đầu tư vào thiết bị cơ bản, nâng cao năng suất và khả năng truy xuất nguồn gốc sản phẩm.

Nếu bất bình đẳng số tiếp tục, tỉnh sẽ đối mặt với sự phát triển khập khiễng, không bền vững và nguy cơ bất ổn xã hội. Công nhân thất nghiệp, người già bị cô lập, nông dân bị loại khỏi chuỗi giá trị là cái giá quá đắt. Để giải quyết, chính quyền cần đóng vai trò nhạc trưởng, loại bỏ các nút thắt chính sách; doanh nghiệp cần trở thành người bảo trợ, đầu tư vào con người; và gia đình, cộng đồng cần là người dẫn dắt kiên nhẫn, giúp các nhóm yếu thế bước qua “cánh cửa số”.

Có thể thấy, giải quyết tốt bài toán này sẽ giúp Thanh Hóa xây dựng một mô hình chuyển đổi số bao trùm và nhân văn, đồng thời thúc đẩy tăng trưởng kinh tế gắn với công bằng và đồng thuận xã hội. Khi đó, công nghệ số sẽ thực sự trở thành công cụ phục vụ mọi người dân, vì nhân dân./.

Đăng ký đặt báo