
Theo số liệu thống kê, Việt Nam hiện có hơn 7 triệu người khuyết tật (NKT), chiếm khoảng 7,06% dân số; trong đó 58% là nữ, gần 29% là người khuyết tật nặng và đặc biệt nặng. Việt Nam cũng là một trong những quốc gia có tỷ lệ người khuyết tật tương đối cao tại khu vực Châu Á – Thái Bình Dương và trên thế giới. Trong nhiều năm qua, Đảng và Nhà nước luôn dành sự quan tâm đặc biệt đối với nhóm đối tượng yếu thế này.
Đánh giá cao những kết quả đã đạt được, tại Diễn đàn lắng nghe tiếng nói của người khuyết tật với Chủ đề “Thúc đẩy hòa nhập xã hội đối với người khuyết tật vì sự tiến bộ của cộng đồng” do Bộ Y tế phối hợp các đơn vị liên quan tổ chức, ông Đặng Văn Thanh, Phó Chủ tịch Thường trực Liên hiệp hội về NKT Việt Nam, cho biết Việt Nam là một trong 20 quốc gia có một hệ thống chính sách hỗ trợ NKT tốt nhất. Chính vì vậy, NKT của Việt Nam trong những năm qua đã được cải thiện cả về đời sống vật chất lẫn tinh thần.
Tuy nhiên, ông Thanh cũng chỉ rõ những khó khăn cản trở sự hòa nhập toàn diện. Phần lớn (gần 80%) NKT sống ở vùng sâu, vùng xa, dẫn đến việc khó tiếp cận chính sách, công nghệ thông tin và nền văn minh đô thị. Rào cản vật lý còn tồn tại ở nhiều trụ sở cơ quan hành chính cấp cơ sở. Đặc biệt, sau dịch COVID-19, công tác dạy nghề miễn phí cho NKT có dấu hiệu chững lại, ảnh hưởng đến khả năng tham gia thị trường lao động.
Đồng quan điểm, ông Lê Việt Cường, Chủ doanh nghiệp Vụn Art đánh giá, việc tiếp cận định hướng nghề nghiệp cho một số nhóm, đặc biệt là người tự kỷ, vẫn còn nhiều thách thức. Nếu không có chiến lược đào tạo và hướng nghiệp sớm, nguy cơ “không có việc làm” trong tương lai là rất lớn. Từ đó, ông kiến nghị cần sớm nghiên cứu, đánh giá năng lực, khả năng lao động của từng nhóm NKT để có định hướng nghề phù hợp, bởi đây là lĩnh vực đòi hỏi thời gian và sự tham gia của nhiều tổ chức chuyên môn.
Bên cạnh đó, mặc dù tỷ lệ bao phủ bảo hiểm y tế cho NKT đã ở mức cao, tuy nhiên vẫn còn nhiều bất cập về bảo hiểm y tế đối với người tự kỷ và NKT nặng, khi nhiều người phải điều trị dài ngày, chi phí cao, trong khi cơ chế hỗ trợ còn hạn chế, gây gánh nặng lớn cho gia đình và cơ sở sử dụng lao động.
Dù nhận được nhiều hỗ trợ về mặt bằng và chính sách từ địa phương đến Trung ương, rào cản lớn nhất hiện nay vẫn là quy định công nhận cơ sở sử dụng lao động là NKT và sự thiếu đồng bộ giữa Luật Người khuyết tật với các luật khác như Luật Đất đai, Luật Đầu tư. Ông Lê Việt Cường đề nghị cần sớm rà soát, sửa đổi các quy định liên quan để tạo hành lang pháp lý thống nhất, qua đó thúc đẩy hệ thống các cơ sở sử dụng lao động là NKT phát triển bền vững.

Còn theo bà Đỗ Thị Huyền - Chủ tịch Hội Người khuyết tật TP. Hà Nội đại diện tổ chức của NKT cho biết, NKT không chỉ là đối tượng cần được hỗ trợ, bảo vệ, mà còn là một lực lượng lao động xã hội có năng lực, có khát vọng đóng góp. Trong những năm qua, bằng nỗ lực của bản thân và sự hỗ trợ của Nhà nước, của các tổ chức và cộng đồng, NKT đã tham gia tích cực vào lao động, sản xuất, kinh doanh, nghệ thuật, thể thao, công tác xã hội… đóng góp thiết thực cho sự phát triển bền vững của Thủ đô và đất nước. Rất nhiều anh chị em đã vượt qua các rào cản về môi trường, về định kiến, để khẳng định bản thân và đóng góp cho sự phát triển kinh tế xã hội.
Vì vậy, để “Thúc đẩy xã hội hòa nhập người khuyết tật – Vì sự tiến bộ chung của toàn xã hội”, để NKT thực sự hòa nhập và phát huy được hết tiềm năng, bà Huyền nêu 4 đề xuất tới lãnh đạo Đảng và Nhà nước tiếp tục hoàn thiện và thực thi mạnh mẽ hơn nữa các chính sách hỗ trợ hòa nhập, đặc biệt trong tiếp cận giáo dục, việc làm, y tế, công nghệ hỗ trợ và môi trường không rào cản.
Đồng thời, tăng cường đầu tư, hỗ trợ cho các mô hình sinh kế, đào tạo nghề gắn với nhu cầu thị trường, giúp NKT không chỉ tìm được việc làm mà còn có cơ hội khởi nghiệp.
Tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức của NKT ra đời và hoạt động, vì đây là mô hình mà NKT tự tổ chức, quản lý, điều hành và đại diện cho tiếng nói của bản thân NKT– một yếu tố cốt lõi của phát triển bao trùm. Sự hình thành Hội Người khuyết tật các cấp chính là bước đi quan trọng để khẳng định rằng NKT không chỉ là đối tượng thụ hưởng mà là chủ thể của quá trình phát triển – là những công dân có quyền, có tiếng nói và có khả năng đóng góp vào sự tiến bộ của chính địa phương mình. Sự hiệu quả của chính quyền hai cấp chỉ thực sự trọn vẹn khi tất cả người dân, bao gồm NKT, có thể tiếp cận và tham gia bình đẳng.
Đẩy mạnh truyền thông nâng cao nhận thức trong cộng đồng, góp phần xóa bỏ định kiến và thúc đẩy sự tôn trọng, bình đẳng đối với NKT trong mọi lĩnh vực của đời sống.
Thúc đẩy xã hội hòa nhập NKT không phải là nhiệm vụ của một ngành, một tổ chức, hay một ngày trong năm. Đó là hành trình lâu dài của cả xã hội. “Chúng tôi tin rằng, với sự quan tâm của Đảng, Nhà nước và các cấp chính quyền; với tinh thần nỗ lực vươn lên của chính NKT, chúng ta sẽ cùng nhau xây dựng một xã hội không ai bị bỏ lại phía sau, nơi mỗi người đều có cơ hội đóng góp theo khả năng của mình”, bà Huyền nhấn mạnh.