Miễn thuế đất nông nghiệp: Cần rà soát lại đối tượng thụ hưởng

Thảo luận về dự thảo Nghị quyết của Quốc hội về miễn thuế sử dụng đất nông nghiệp, nhiều đại biểu Quốc hội đề nghị cần rà soát kỹ các đối tượng được miễn thuế đất để bảo đảm công bằng và đúng mục tiêu chính sách ban hành. Việc miễn thuế nên tập trung vào người dân trực tiếp sản xuất nông nghiệp, hợp tác xã và hộ gia đình thực hành canh tác bền vững, nông nghiệp hữu cơ, nông nghiệp sạch.
20250611164726-51thu-hoach-lua-1749699497.jpg
Rà soát kỹ các đối tượng được miễn thuế đất nông nghiệp. (Ảnh minh hoạ)

Rà soát kỹ các đối tượng được miễn thuế đất

Chiều 11/6, tiếp tục chương trình làm việc của Kỳ họp thứ chín, Quốc hội đã thảo luận tại hội trường về dự thảo Nghị quyết liên quan đến chính sách miễn thuế sử dụng đất nông nghiệp. Nhiều ý kiến cho rằng, trong bối cảnh mới, chính sách này cần được rà soát, điều chỉnh để đảm bảo đúng đối tượng thụ hưởng, nâng cao hiệu quả sử dụng đất và tránh lãng phí nguồn lực quốc gia.

Đại biểu Thạch Phước Bình (Trà Vinh) đánh giá, chính sách hiện hành vẫn mang tính đại trà, chưa phân loại cụ thể các nhóm đối tượng. Theo ông, việc miễn thuế đồng loạt cho cả hộ nông dân sản xuất nhỏ lẻ, hợp tác xã hoạt động thực tế lẫn các tổ chức, cá nhân sở hữu đất nhưng không trực tiếp canh tác đang gây ra nhiều bất cập. Cách tiếp cận này không chỉ thiếu công bằng mà còn dẫn đến thất thu ngân sách và tạo điều kiện cho một số trường hợp lợi dụng chính sách.

Từ thực tế đó, đại biểu Bình đề xuất cần phân tầng chính sách một cách hợp lý: miễn toàn bộ cho người dân trực tiếp sản xuất; giảm hoặc giữ nguyên mức thuế đối với những trường hợp sử dụng đất không hiệu quả, hoặc cho thuê lại mà không minh bạch. Chính sách thuế cần gắn liền với điều kiện sử dụng đất hiệu quả như: không để đất bỏ hoang quá 12 tháng, sử dụng đúng mục đích, bảo vệ môi trường và tài nguyên sinh thái.

Không dừng lại ở đó, đại biểu Bình cũng cho rằng, việc miễn thuế nên được tích hợp trong một hệ sinh thái hỗ trợ nông nghiệp toàn diện, bao gồm: tín dụng ưu đãi, đào tạo kỹ thuật, bảo hiểm mùa vụ, ứng dụng khoa học công nghệ và phát triển chuỗi giá trị. Khi được thiết kế đồng bộ, chính sách thuế sẽ tạo thêm động lực cho người nông dân đầu tư vào sản xuất bền vững.

Một điểm quan trọng khác được đại biểu Bình nhấn mạnh là yêu cầu tăng cường giám sát và minh bạch. Ông đề xuất Quốc hội giao Chính phủ xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia về miễn thuế sử dụng đất nông nghiệp, với cơ chế giám sát định kỳ hai năm/lần. Báo cáo cần nêu rõ số lượng đối tượng được miễn thuế, hiệu quả kinh tế, tình trạng sử dụng đất và mức độ thất thu ngân sách, từ đó kịp thời điều chỉnh nếu có sai lệch hoặc lạm dụng.

Đồng quan điểm, đại biểu Hà Sỹ Đồng (Quảng Trị) cho rằng, với những tỉnh có tỷ lệ dân số sống ở nông thôn cao như Quảng Trị, nơi hơn 70% người dân dựa vào sản xuất nông nghiệp nhỏ lẻ, chính sách miễn thuế đất có ý nghĩa rất lớn. Đây không chỉ là biện pháp hỗ trợ tài chính trước mắt mà còn là một giải pháp an sinh xã hội thiết thực, giúp ổn định đời sống, hạn chế tình trạng ly nông, ly hương.

db11-1749641463258257439700-1749699542.jpg
Đại biểu Hà Sỹ Đồng đề nghị cần rà soát kỹ đối tượng được miễn thuế để bảo đảm công bằng và đúng mục tiêu hỗ trợ.

Tuy nhiên, ông Đồng cũng nhấn mạnh đến yêu cầu rà soát kỹ lưỡng các đối tượng được miễn thuế để đảm bảo chính sách đi đúng mục tiêu. Theo ông, cần tập trung ưu đãi cho những người trực tiếp sản xuất, các hợp tác xã và hộ nông dân thực hiện canh tác hữu cơ, nông nghiệp sạch, hướng đến phát triển bền vững. Đối với doanh nghiệp hoặc tổ chức tích tụ đất lớn nhưng không trực tiếp canh tác hoặc sử dụng kém hiệu quả, cần có cơ chế đánh giá, sàng lọc kỹ lưỡng nhằm tránh tình trạng chính sách bị lợi dụng.

Từ những phân tích nêu trên, nhiều đại biểu đề xuất điều chỉnh dự thảo Nghị quyết theo hướng: phân loại rõ đối tượng được miễn thuế; thiết lập điều kiện đi kèm trong việc sử dụng đất; tích hợp với các chính sách hỗ trợ khác; và xây dựng cơ chế giám sát, minh bạch thông tin. Những điều chỉnh này sẽ góp phần đảm bảo chính sách miễn thuế đất nông nghiệp vừa đúng mục tiêu hỗ trợ người dân, vừa nâng cao hiệu quả quản lý và sử dụng tài nguyên đất đai trong bối cảnh hiện nay.

Cần sản xuất và sử dụng đất hiệu quả

Giải trình trước Quốc hội về các ý kiến góp ý liên quan đến chính sách miễn thuế sử dụng đất nông nghiệp, Bộ trưởng Bộ Tài chính Nguyễn Văn Thắng khẳng định, mục tiêu quan trọng nhất của chính sách này trong suốt thời gian qua là góp phần thực hiện chủ trương xóa đói, giảm nghèo của Đảng và Nhà nước, đồng thời hỗ trợ trực tiếp cho khu vực nông nghiệp, nông dân và nông thôn. Chính sách cũng đóng vai trò khuyến khích các cá nhân, tổ chức sử dụng đất tiết kiệm, hiệu quả, thúc đẩy sản xuất nông nghiệp phát triển bền vững.

Theo Bộ trưởng Thắng, dự thảo nghị quyết trình lần này không bổ sung chính sách mới, mà chủ yếu đề xuất kéo dài thời gian thực hiện miễn thuế sử dụng đất nông nghiệp đến hết năm 2030. Điều này hoàn toàn phù hợp với định hướng lâu dài của Đảng và Nhà nước đối với lĩnh vực nông nghiệp, nông dân, nông thôn, nhất là trong bối cảnh ngành nông nghiệp vẫn đang đóng vai trò trụ đỡ của nền kinh tế trong nhiều giai đoạn khó khăn.

Trước những lo ngại về tình trạng sử dụng đất không hiệu quả, bỏ hoang gây lãng phí tài nguyên, Bộ trưởng cũng nhấn mạnh: việc giám sát và xử lý vi phạm trong quản lý đất đai đã được quy định rõ trong hệ thống pháp luật hiện hành. Cụ thể, theo Luật Đất đai năm 2024, các mốc thời gian sử dụng đất được xác định rõ: đất trồng cây hàng năm và đất nuôi trồng thủy sản nếu không được sử dụng liên tục trong 12 tháng; đất trồng cây lâu năm không sử dụng trong 18 tháng; đất trồng rừng không sử dụng trong 24 tháng – nếu đã bị xử phạt vi phạm hành chính mà vẫn không đưa vào sử dụng thì sẽ bị Nhà nước thu hồi.

Đáng lưu ý, đất nông nghiệp bị bỏ hoang và thu hồi trong những trường hợp này sẽ không được bồi thường khi Nhà nước thực hiện thu hồi đất, theo quy định tại khoản 3, Điều 101 của Luật Đất đai. Đây là chế tài quan trọng nhằm bảo đảm đất đai được khai thác đúng mục đích, tránh tình trạng “ôm đất chờ thời”, gây lãng phí tài nguyên quốc gia.

Về trách nhiệm quản lý, Bộ trưởng Nguyễn Văn Thắng cho biết, theo quy định pháp luật, công tác quản lý nhà nước về đất đai thuộc chức năng của Bộ Tài nguyên và Môi trường và các cơ quan quản lý đất đai tại địa phương. Do đó, việc giám sát, xử lý các hành vi sử dụng sai mục đích hoặc bỏ hoang đất nông nghiệp cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa các cấp, các ngành nhằm bảo đảm tính hiệu lực và hiệu quả trong thực thi chính sách.

Trần Huyền