Khai thác nguồn lợi từ rừng và các giải pháp nâng cao hiệu quả truyền thông về quản lý rừng bền vững ở Việt Nam

Nghiên cứu tập trung phân tích tổng thể nguồn lợi kinh tế, xã hội, môi trường từ rừng và hiệu quả công tác truyền thông về quản lý rừng bền vững tại Việt Nam.

Tóm tắt: Nghiên cứu tập trung phân tích tổng thể nguồn lợi kinh tế, xã hội, môi trường từ rừng và hiệu quả công tác truyền thông về quản lý rừng bền vững tại Việt Nam. Tác giả sử dụng kết hợp tài liệu thứ cấp (sách, báo, báo cáo khoa học...) và khảo sát thực địa thông qua phỏng vấn trực tiếp và phiếu khảo sát online với các nhóm đối tượng có liên quan.

Kết quả cho thấy rừng mang lại nguồn lợi lớn: Năm 2024, kim ngạch xuất khẩu lâm sản đạt 17,3 tỷ USD; rừng hấp thụ khoảng 56,8 triệu tấn CO₂/năm, với tổng giá trị carbon quy đổi 25,7 tỷ USD. Lâm sản ngoài gỗ đóng góp từ 10–60% thu nhập hộ gia đình, đặc biệt ở vùng rừng núi. Công tác truyền thông bước đầu đạt hiệu quả nhất định nhưng vẫn tồn tại nhiều hạn chế, 99% số người trả lời phỏng vấn biết đến chính sách quản lý rừng, nhưng chỉ 38% số người trả lời phỏng vấn hiểu đúng nội dung; 68% đánh giá truyền thông hiện nay ở mức tốt, song chỉ 46% hiểu rõ và 37% thấy nội dung dễ áp dụng. Các rào cản chính gồm thiếu kinh phí (79%), nội dung pháp lý khô khan (68%) và thiếu gắn kết với lợi ích cụ thể (58%).

Bài báo đề xuất các giải pháp như tăng ngân sách, đa dạng hóa hình thức, đào tạo đội ngũ và lồng ghép truyền thông vào sinh hoạt cộng đồng, nhằm nâng cao hiệu quả và thúc đẩy quản lý rừng bền vững trong bối cảnh phát triển xanh.     

I. Đặt vấn đề

Rừng có vai trò đặc biệt quan trọng trong phát triển kinh tế, xã hội và bảo vệ môi trường. Không chỉ cung cấp tài nguyên như gỗ và lâm sản ngoài gỗ, rừng còn góp phần điều hòa khí hậu, bảo vệ đất, nước, duy trì đa dạng sinh học và hấp thụ khí nhà kính - những chức năng thiết yếu trong bối cảnh biến đổi khí hậu ngày càng gia tăng. Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp Liên Hợp Quốc (FAO, 2018) nhấn mạnh rằng ngành lâm nghiệp tạo ra hơn 45 triệu việc làm chính thức và cung cấp sinh kế cho khoảng 1,5 tỷ người trên toàn thế giới. Vì vậy, rừng đang ngày càng được xem là trụ cột quan trọng trong chiến lược phát triển bền vững và chuyển đổi xanh ở nhiều quốc gia, trong đó có Việt Nam.

Tại Việt Nam, cùng với các cam kết quốc tế về tăng trưởng xanh và giảm phát thải, nhiều chính sách về quản lý và bảo vệ rừng bền vững đã được ban hành. Bên cạnh những nỗ lực trong xây dựng chính sách và mở rộng diện tích rừng, thực tế tại nhiều địa phương vẫn ghi nhận tình trạng khai thác, lấn chiếm rừng trái phép, suy giảm chất lượng rừng, hiệu quả công tác quản lý và bảo vệ rừng chưa cao.

Truyền thông giữ vai trò then chốt trong việc nâng cao nhận thức, thay đổi hành vi và huy động sự tham gia của cộng đồng vào công tác bảo vệ rừng. Truyền thông được xem là công cụ chiến lược nhằm phổ biến chính sách, nâng cao nhận thức, thúc đẩy sự tham gia và thay đổi hành vi của người dân. Tuy nhiên, hoạt động truyền hiện nay còn mang tính hình thức, thiếu chiều sâu và chưa đáp ứng nhu cầu tiếp cận đa dạng của các nhóm đối tượng khác nhau (Trần Văn Mão et al., 2021). Trong bối cảnh phát triển công nghệ số, truyền thông nếu được tổ chức hiệu quả sẽ là công cụ chiến lược giúp gắn kết chính sách với hành động thực tiễn.

Từ những lý do trên, việc nghiên cứu thực trạng khai thác nguồn lợi từ rừng và đánh giá hiệu quả công tác truyền thông về quản lý rừng bền vững là hết sức cấp thiết. Nghiên cứu này nhằm phân tích giá trị tổng hợp của rừng, đánh giá mức độ hiểu biết, tiếp cận thông tin và các yếu tố ảnh hưởng đến truyền thông về quản lý rừng bền vững. Từ đó, đề xuất các giải pháp truyền thông phù hợp, khả thi, góp phần nâng cao nhận thức cộng đồng và thúc đẩy công tác quản lý rừng theo hướng bền vững. Nghiên cứu có ý nghĩa cả về mặt khoa học lẫn thực tiễn trong việc bảo vệ và phát triển tài nguyên rừng trước những thách thức mới của thời đại.

II. Phương pháp nghiên cứu

2.1. Phương pháp thu thập số liệu thứ cấp

Tác giả sử dụng tài liệu thứ cấp như: Sách, báo, tạp chí, báo cáo kỹ thuật, báo cáo khoa học, báo cáo hiện trạng, luận án, luận văn, báo cáo khoa học, báo cáo tổng kết của các đơn vị,... đã được công bố và xử lý nhằm thu thập các thông tin. Đây là cơ sở quan trọng về tổng quát và chung nhất về các vấn đề liên quan tới giá trị rừng và công tác truyền thông quản lý rừng bền vững. Các tài liệu này được sưu tầm, phân loại và trích dẫn đầy đủ.

2.2. Phương pháp thu thập số liệu sơ cấp

Tác giả sử dụng phương pháp điều tra phỏng vấn trực tiếp hoặc gửi phiếu khảo sát online các bên liên quan thông qua bảng câu hỏi của phiếu điều tra. Số lượng phiếu điều tra, đối tượng khảo sát đảm bảo đại diện cho các đối tượng liên quan tới nguồn lợi rừng và công tác truyền thông về quản lý rừng bền vững. Ngoài ra, tác giả còn sử dụng một số phương pháp khác như: trao đổi, thảo luận, sử dụng phiếu thăm dò ý kiến,… để tìm hiểu rõ hơn về vấn đề nghiên cứu.

anh-man-hinh-2025-06-22-luc-161058-1750583470.png
Bảng 1. Dung lượng mẫu khảo sát.

- Nội dung khảo sát: Thông tin thu thập các đối tượng tập trung thực trạng khai thác các nguồn lợi từ rừng, thực trạng công tác truyền thông về quản lý rừng, các yếu tố ảnh hưởng đến công tác truyền thông về quản lý rừng, các ý kiến đóng góp về giải pháp nâng cao hiệu quả truyền thông về quản lý rừng bền vững.

2.3. Phương pháp phân tích số liệu

2.3.1. Phương pháp thống kê

Thống kê mô tả: Trên cơ sở tổng hợp, phân tích kết quả điều tra tính toán tổng số, tỷ lệ phần trăm, các chỉ số trung bình, độ lệch chuẩn, phạm vi, độ biến động... thông tin được trình bày dưới dạng bảng và đồ thị.

 Thống kê suy luận: Là quá trình sử dụng dữ liệu thu thập được từ mẫu để ước lượng hoặc kiểm định các giả thuyết thống kê nhằm suy rộng cho cả tổng.

2.3.2 Phương pháp phân tích định lượng

Xử lý số liệu bằng phương pháp thống kê toán học trong lâm nghiệp trên các phần mềm Excel. Việc phân tích kết quả thu được sau quá trình xử lý sử dụng phương pháp mô tả so sánh. Kết quả xử lý được thể hiện theo dạng phân tích, mô tả, bảng và biểu đồ.

III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU

3.1. Thực trạng khai thác nguồn lợi từ rừng của Việt Nam

Việt Nam là quốc gia nhiệt đới với địa hình phần lớn là đồi núi, chiếm tới ¾ diện tích lãnh thổ, do đó, lâm nghiệp có vai trò đặc biệt quan trọng về kinh tế và sinh thái của hầu hết các vùng lãnh thổ. Rừng không chỉ là nguồn tài nguyên thiên nhiên quý giá, mà còn mang lại giá trị đa chiều, thể hiện ở bốn phương diện chủ yếu: kinh tế, môi trường, văn hóa và thủy lợi (Nguyễn Ngọc Lung, 2017; FAO, 2020).

Theo Quyết định số 561/QĐ-BNNM ngày 31/3/2025 của Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, tính đến ngày 31/12/2024, tổng diện tích rừng trên cả nước đạt 14.874.302 ha, bao gồm cả diện tích rừng chưa đủ tiêu chí tính vào tỷ lệ che phủ. Trong đó, rừng tự nhiên chiếm 10.133.952 ha, còn lại rừng trồng là 4.740.350 ha, với tỷ lệ che phủ rừng toàn quốc đạt 42,03%. So với năm 2014, diện tích rừng toàn quốc đã tăng từ 13,9 triệu ha lên gần 14,87 triệu ha, tương ứng với mức tăng khoảng 7%, và tỷ lệ che phủ tăng từ 41% lên 42,03%. Đặc biệt, diện tích rừng trồng đã tăng đáng kể, từ 3,5 triệu ha lên 4,74 triệu ha, cho thấy hiệu quả của các chính sách phục hồi và phát triển rừng trồng sản xuất. Tuy nhiên, diện tích rừng tự nhiên có xu hướng giảm nhẹ, từ 10,3 triệu ha xuống còn 10,13 triệu ha, đặt ra yêu cầu cấp thiết trong công tác bảo vệ và phục hồi rừng tự nhiên.

Với quy mô rừng hiện tại, ngành lâm nghiệp không chỉ cung cấp nguồn nguyên liệu quan trọng cho xuất khẩu và chế biến, mà còn tạo ra các giá trị kinh tế, sinh thái, xã hội và môi trường lâu dài, đóng góp thiết thực vào tăng trưởng xanh và phát triển kinh tế bền vững của quốc gia.

Giá trị kinh tế có thể dễ dàng được nhìn thấy thông qua việc cung cấp gỗ và lâm sản ngoài gỗ phục vụ tiêu dùng và xuất khẩu. Theo thống kê của Cục Lâm nghiệp (2025), kim ngạch xuất khẩu lâm sản năm 2024 đạt 17,3 tỷ USD, trong đó gỗ và sản phẩm từ gỗ chiếm 16,3 tỷ USD, còn lại 1 tỷ USD là lâm sản ngoài gỗ. Đặc biệt, với sự gia tăng về diện tích rừng trồng từ 3,5 triệu ha năm 2014 lên 4,74 triệu ha năm 2024, Việt Nam đang từng bước nâng cao năng suất và giá trị rừng trồng sản xuất.

Ngoài ra các lâm sản ngoài gỗ như măng, rau rừng, dược liệu, nhựa thông, trái cây hoang dã và củi đun đóng vai trò quan trọng trong thu nhập và khẩu phần dinh dưỡng của người dân, đặc biệt tại các cộng đồng phụ thuộc vào rừng. Nghiên cứu cho thấy, lâm sản ngoài gỗ chiếm từ 10–60% thu nhập hộ gia đình nông thôn, tùy từng khu vực (Shackleton & Shackleton, 2004). Tại Việt Nam, ở vùng Tây Bắc người H’mong sử dụng tới 249 loài cây cho mục đích ăn uống, chữa bệnh và tạo thu nhập (Dao & Hölscher, 2018). Tại Vườn Quốc gia Cát Tiên, hơn 100 loài thực vật hoang dã được người dân sử dụng hàng ngày (Dinh et al., 2012). Lâm sản ngoài gỗ còn là giải pháp cứu đói tạm thời trong thời điểm giáp hạt, giúp giảm rủi ro an ninh lương thực tại nhiều địa phương (Jakobsen, 2006).

 Theo Viện Khoa học Lâm nghiệp Việt Nam, giai đoạn 2011 – 2018, bình quân rừng Việt Nam giảm phát thải khí nhà kính đạt 18,3 triệu tấn CO2 tương đương (CO2tđ)/năm do ngăn ngừa suy thoái và mất rừng. Cùng với đó, phát triển rừng tăng cả diện tích và chất lượng giúp tăng hấp thụ bình quân khoảng 38,5 triệu tấn CO2tđ. Như vậy, tổng cộng cả hấp thụ và phát thải ròng từ rừng đạt 56,8 triệu tấn CO2 tđ. Theo nghiên cứu của Dương Thị Thành và cộng sự (2024), tổng lượng carbon lưu trữ trong rừng Việt Nam đạt khoảng 1.401,52 triệu tấn, tương đương 5.143,60 triệu tấn CO₂, với giá trị kinh tế quy đổi khoảng 25,7 tỷ USD. Trong đó, rừng tự nhiên đóng góp khoảng 87,44 triệu USD/năm, và rừng trồng là 63 triệu USD/năm. Đây là những con số ấn tượng đem lại tiềm năng thị trường và nhu cầu thương mại carbon rừng tại Việt Nam là rất lớn. Nếu chúng ta biết khai thác hiệu quả đây sẽ là một nguồn đóng góp đáng kể cho nền kinh tế quốc gia, và sẽ là nguồn kinh phí lớn để nâng cao thu nhập cho người trồng rừng, đồng thời, góp phần không nhỏ bảo vệ và phát triển rừng tại Việt Nam.

Bên cạnh đó, rừng còn mang lại giá trị môi trường rất lớn như: Điều hòa khí hậu, bảo vệ đất, giữ nước, phòng chống thiên tai, bảo tồn đa dạng sinh học và hấp thụ khí nhà kính (Brown et al., 2019). Theo FAO (2018), ngành lâm nghiệp toàn cầu tạo ra khoảng 45,15 triệu việc làm chính thức và 60 triệu việc làm phi chính thức, mang lại tổng thu nhập hàng năm khoảng 580 tỷ USD. Riêng lâm sản ngoài gỗ (LSNG), bao gồm thu hái, trồng trọt và thương mại, tạo sinh kế cho khoảng 1,5 tỷ người, chủ yếu ở khu vực nông thôn và vùng rừng (Jenne de et al., 2000; Shanley et al., 2015). Kết quả điều tra khảo sát cho thấy100% người trả lời phỏng vấn đều trả lời đã và đang sử dụng khai thác nguồn lợi từ rừng.

Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu, nhận thức của cộng đồng và chính quyền địa phương về nguồn lợi của rừng và quản lý rừng bền vững còn hạn chế (Trần Văn Mão et al., 2021).  Do đó, việc nâng cao hiệu quả truyền thông, giáo dục và chính sách quản lý tài nguyên rừng, đồng thời xây dựng cơ chế pháp lý minh bạch, khuyến khích người dân và doanh nghiệp tham gia vào chuỗi giá trị lâm nghiệp, là hướng đi cấp thiết nhằm hiện thực hóa tiềm năng kinh tế khổng lồ từ rừng trong thời kỳ phát triển xanh và chuyển đổi sinh thái toàn cầu.

3.2. Thực trạng công tác truyền thông về quản lý rừng bền vững

3.2.1. Mức độ nhận thức về quản lý rừng bền vững

Nhận thức của cộng đồng, đặc biệt là các nhóm dân cư sống gần rừng về quản lý rừng bền vững, các chính sách quản lý rừng bền vững có vai trò hết sức quan trọng, quyết định thành công của công tác quản lý rừng bền vững. Khi hiểu rõ mục tiêu, nội dung và lợi ích lâu dài của các chính sách liên quan đến bảo vệ và phát triển rừng, họ sẽ chủ động tham gia, giám sát và thực hành các hành vi phù hợp. Ngược lại, nếu mức độ nhận thức thấp, chính sách sẽ khó đi vào thực tiễn, dễ bị hiểu sai hoặc đối phó hình thức. Do đó, đánh giá mức độ nhận thức của người dân về quản lý rừng bền vững không chỉ phản ánh hiệu quả của hoạt động truyền thông chính sách hiện nay, mà còn là cơ sở quan trọng để đề xuất các giải pháp tăng cường truyền thông, nâng cao nhận thức cộng đồng, hướng đến quản lý rừng hiệu quả và lâu dài.

Qua điều tra khảo sát kết hợp phỏng vấn về hiện trạng công tác truyền thông chính sách và pháp luật về quản lý rừng bền vững, kết quả cho thấy 99% người được khảo sát đã biết tới các chinh sách, pháp luật quản lý bảo vệ rừng. Trong đó, 38% số người được khảo sát hiểu rõ, hiểu đúng được nội dung quản lý rừng bền vững, kết quả về mức độ nhận biết về quản lý rừng bền vững được thể hiện ở hình 1:

Hình 1: Thực trạng mức độ nhận biết về chính sách pháp luật về quản lý rừng bền vững của cộng đồng

Qua hình 1 ta thấy số lượng biết tới các chính sách pháp luật quản lý rừng bền vững là rất cao, chiếm 99% số lượng người được phỏng vấn, cho thấy hoạt động truyền thông và phổ biến pháp luật bước đầu đã đạt được độ phủ thông tin tương đối tốt trong cộng đồng. Tuy nhiên có sự chênh lệch đáng kể trong mức độ nhận biết chính sách quản lý rừng bền vững trong cộng đồng.

Số lượng người được phỏng vấn biết rõ, hiểu rõ và hiểu đúng nội dung chính sách, pháp luật quản lý rừng bền vững chỉ chếm 38%, tập trung chủ yếu vào nhóm đối là cán bộ kiểm lâm, cán bộ quản lý, trong khi đó có tới 61% số lượng người phỏng vấn biết tới chính sách nhưng chưa hiểu rõ nội dung hoặc hiểu sai nội dung quản lý rừng bền vững, tập trung chủ yếu là nhóm đối tượng là người dân sống gần rừng, chủ rừng là hộ gia đình, cá nhân và cả cán bộ truyền thông địa phương, phản ánh tình trạng nhận thức còn mơ hồ, thiếu chiều sâu, dễ dẫn đến hiểu sai hoặc không áp dụng chính sách vào thực tế. Đáng chú ý, vẫn còn 1% chưa biết hoặc chưa từng nghe về chính sách quản lý rừng bền vững - một tỷ lệ tuy nhỏ nhưng thể hiện lỗ hổng truyền thông tại một số khu vực hoặc nhóm dân cư nhất định.

Điều này phản ánh rằng mặc dù mức độ nhận biết chính sách là cao, nhưng mức độ hiểu biết sâu và khả năng liên hệ chính sách với thực tiễn cuộc sống còn hạn chế. Đây là dấu hiệu cho thấy cần tiếp tục nâng cao chất lượng truyền thông chính sách, hướng tới nội dung gần gũi, dễ tiếp cận và có tính ứng dụng cao, giúp người dân không chỉ “biết đến” mà còn “hiểu rõ” và “tham gia hiệu quả” vào công tác quản lý rừng bền vững.

3.2.2. Đánh giá hiệu quả truyền thông

Qua điều tra khảo sát cộng đồng biết đến quản lý rừng bền vững qua những hình thức nào thì đa số người được phỏng vấn trả lời kênh truyền thông được tiếp cận nhiều nhất là họp thôn/xã chiếm 80%, tiếp đến là truyền miệng (71%), loa phát thanh (70%), tài liệu in ấn banner, băng rôn khẩu hiệu, biển báo (69%) mạng xã hội (39%), nhóm người trẻ tuổi dưới 35 tuổi có xu hướng tiếp cận mạng xã hội nhiều hơn so với nhóm trên 50 tuổi. Truyền thông truyền thống vẫn chiếm ưu thế, nhưng mạng xã hội đang là xu hướng mới, nhất là với chủ rừng trẻ và cán bộ xã.

Bên cạnh các hình thức truyền thông phổ biến như trên một hình thức đang được sử dụng khá hiệu quả là là ký cam kết với các chủ rừng, thông qua chương trình dự án gắn lợi ích liền với lợi ích của chủ rừng.

Với nội dung và chủ đề truyền thông qua câu hỏi về “mức độ cần thiết thực hiện truyền thông quản lý rừng bền vững” tại địa phương thì hầu hết các ý kiến của cộng đồng đều cho rằng cần tăng cường công tác truyền thông, công tác truyền thông về quản lý rừng bền vững là rất cần thiết.

Theo kết quả khảo sát ý kiến đánh giá kết quả thực hiện công tác truyền thông quản lý rừng bền vững hiện nay, các ý kiến phản hồi khá tích cực, trong đó tỷ lệ đánh giá tốt và rất tốt chiếm khoảng 68%, mức trung bình chiếm khoảng 32%.

Hình 2: Kết quả khảo sát công tác truyền thông quản lý rừng bền vững

Qua hình 2, cho thấy, có 46% người dân đánh giá công tác truyền thông đạt mức “tốt”, 32% cho rằng chỉ ở mức “trung bình”, và 22% nhận định là “rất tốt” và không có người nào đánh giá công tác này ở mức “yếu” hoặc “kém”.

Với kết quả này cho thấy phần lớn người dân đã ghi nhận nỗ lực của các cơ quan chức năng trong việc phổ biến chính sách pháp luật về quản lý rừng bền vững, và nhìn chung, hoạt động truyền thông bước đầu đã tạo được hiệu ứng tích cực trong cộng đồng. Tuy nhiên, tỷ lệ người đánh giá ở mức “trung bình” vẫn còn tương đối cao, chiếm hơn 1/3 tổng số người được hỏi, phản ánh một thực tế rằng truyền thông chính sách hiện nay chưa thực sự thuyết phục hoặc chưa chạm tới chiều sâu nhận thức của một bộ phận dân cư. Nguyên nhân chính ảnh hưởng tới kết quả truyền thông quản lý rừng bền vững là tài liệu khô khan, chưa gắn với lợi ích thực tế, thiếu cán bộ truyền thông chuyên trách và ngôn ngữ phù hợp với cộng đồng dân tộc thiểu số...

Kết quả này cũng hoàn toàn phù hợp với biểu đồ về mức độ nhận biết chính sách quản lý rừng bền vững, trong đó có tới 61% người dân chỉ “nghe nói nhưng không hiểu rõ” nội dung chính sách. Như vậy, có thể thấy rằng, dù người dân có tiếp cận thông tin, nhưng việc hiểu đúng và áp dụng hiệu quả vào thực tiễn vẫn còn là một khoảng cách lớn. Công tác truyền thông tuy đã đạt được một số kết quả tích cực nhưng vẫn còn thiếu chiều sâu, chưa thực sự phát huy vai trò là cầu nối giữa chính sách và hành động thực tế của cộng đồng.

3.2.3. Đánh giá thuận lợi khó khăn của công tác truyền thông quản lý rừng bền vững

3.2.3.1. Thuận lợi

Mặc dù công tác truyền thông về quản lý rừng bền vững đã đạt được một số kết quả nhất định, thực tế vẫn cho thấy nhiều hạn chế về nội dung, phương pháp và mức độ tiếp cận cộng đồng. Để đề xuất được các giải pháp phù hợp và hiệu quả hơn, việc đánh giá đầy đủ các thuận lợi và khó khăn trong quá trình triển khai truyền thông là cần thiết. Đây sẽ là cơ sở quan trọng giúp định hướng nội dung, cách thức và đối tượng truyền thông trong giai đoạn tiếp theo, từ đó đề xuất được giải pháp nâng cao hiệu quả của công tác truyền thông quản lý rừng bền vững.

Quan điểm của cộng đồng khi trả lời phỏng vấn về thuận lợi trong việc thực hiện công tác truyền thông quản lý rừng bền vững hiện nay được thể hiện ở hình 3.

Hình 3. Quan điểm của cộng đồng về thuận lợi trong việc thực hiện công tác truyền thông quản lý rừng bền vững

Kết quả cho thấy phần lớn người được khảo sát nhận định rằng hệ thống chính sách và công nghệ truyền thông là những yếu tố thuận lợi nhất trong việc thực hiện công tác truyền thông quản lý rừng bền vững, có  82% số người trả lời phỏng vấn cho rằng có nhiều chính sách hỗ trợ từ Nhà nước và quốc tế, điều này cho thấy khung pháp lý và chính sách hiện hành đã tạo điều kiện thuận lợi để thúc đẩy công tác truyền thông phát triển theo hướng chuyên nghiệp và có trọng tâm. Đứng thứ hai là công nghệ truyền thông phát triển, với 81% ý kiến đồng thuận, phản ánh vai trò ngày càng rõ nét của hệ thống công nghệ thông tin và truyền thông trong việc mở rộng phạm vi tiếp cận, đa dạng hóa hình thức truyền tải nội dung đến người dân.

Sự tham gia tích cực của các bên liên quan cũng được đánh giá cao với tỷ lệ 79%, khẳng định hiệu quả của cơ chế phối hợp liên ngành và sự đồng hành của các tổ chức xã hội, cộng đồng dân cư trong việc truyền tải và củng cố thông điệp về quản lý rừng bền vững. Bên cạnh đó, 75% người dân cho rằng nhận thức cộng đồng đã được nâng cao, phản ánh một xu hướng tích cực về sự thay đổi trong thái độ và hành vi tiếp cận thông tin lâm nghiệp.  

Tuy nhiên, tỷ lệ đánh giá “mức độ hiểu rõ nội dung truyền thông” chỉ đạt 46%, cho thấy khoảng cách giữa việc tiếp cận thông tin và khả năng hiểu, áp dụng thông tin vẫn còn tương đối lớn. Chỉ có 37% số người trả lời phỏng vấn đánh giá nội dung truyền thông là “đơn giản, dễ hiểu, dễ áp dụng”.

3.2.3.1. Khó khăn

Bên cạnh những thuận lợi, công tác truyền thông quản lý rừng bền vững cũng gặp không ít thách thức, qua điều tra khảo sát thì 2 thách thức lớn nhất đối với hiệu quả công tác truyền thông quản lý rừng bền vững là nguồn kinh phí còn hạn chế và nội dung truyền thông. (Hình 4)

Hình 4. Quan điểm của cộng đồng về khó khăn trong việc thực hiện công tác truyền thông quản lý rừng bền vững

Hình 4 thể hiện những khó khăn trong công tác truyền thông quản lý và bảo vệ rừng phản ánh khá rõ các rào cản hiện nay trong việc đưa thông tin chính sách đến với cộng đồng. Kết quả khảo sát cho thấy yếu tố được đánh giá là cản trở lớn nhất là vấn đề kinh phí còn hạn chế, với 79% người được hỏi cho rằng đây là nguyên nhân chính ảnh hưởng hiệu quả truyền thông. 68% người tham gia khảo sát cho rằng nội dung truyền thông khó hiểu, mang tính pháp lý khô khan, điều này cho thấy một bất cập trong cách thiết kế và trình bày thông tin. Việc sử dụng ngôn ngữ quá hành chính, chuyên môn khiến thông điệp trở nên xa lạ và khó tiếp cận đối với người dân có trình độ học vấn hoặc ngôn ngữ bản địa khác nhau. Đồng thời, 58% nhận định rằng truyền thông chưa gắn với lợi ích cụ thể, phản ánh tình trạng nội dung truyền thông còn chung chung, chưa cho thấy rõ tác động tích cực hoặc quyền lợi thiết thực mà người dân có thể đạt được khi tham gia bảo vệ rừng. Điều này có thể làm giảm động lực tiếp nhận và hành động từ phía cộng đồng.

Bên cạnh đó, 50% số người được hỏi cho rằng việc truyền thông hiện nay mang tính “truyền đạt một chiều”, ít có sự tương tác hoặc phản hồi từ phía người dân. Điều này thể hiện một lối tiếp cận còn thụ động và thiếu tính đối thoại, khiến thông tin dễ bị hiểu sai hoặc không được tiếp thu một cách hiệu quả. 45% số người trả lời phỏng vấn cho rằng hình thức truyền thông thiếu sinh động, dẫn đến cảm giác nhàm chán, khó thu hút sự quan tâm, đặc biệt là giới trẻ hoặc người dân đã quen với các hình thức truyền thông hiện đại. Đồng thời, cũng có 34% cho biết thiếu cán bộ truyền thông bản địa, điều này cho thấy công tác truyền thông chưa thực sự gắn với các lực lượng địa phương là những người có khả năng truyền tải thông tin gần gũi, phù hợp với ngữ cảnh văn hóa bản địa.

Ngoài ra các yếu tố như lựa chọn thời gian, thời điểm hợp lý để thực hiện chương trình truyền thông cũng có ảnh hưởng đến hiệu quả truyền thông.

3.3. Giải pháp nâng cao hiệu quả truyền thông quản lý rừng bền vững

Mặc dù công tác truyền thông về quản lý bảo vệ rừng bền vững hiện nay đã đạt được nhiều thành tựu nhất định, tuy nhiên để nâng cao hiểu quả hoạt động truyền thông về quản lý rừng bền vững cần phải thực hiện đồng thời các giải pháp sau:

Trước hết, bổ sung và cân đối ngân sách cho truyền thông là một giải pháp cấp thiết. Khảo sát cho thấy có tới 90% cán bộ tuyên truyền và người dân được hỏi đánh giá việc tăng cường nguồn lực tài chính là “rất cần thiết”, trong khi 10% cho rằng là “cần thiết”. Thực tế hiện nay cho thấy, kinh phí dành cho truyền thông còn hạn chế, chưa đủ để triển khai các hoạt động đa dạng về hình thức và sâu rộng về nội dung, đặc biệt ở các vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi – nơi người dân ít có điều kiện tiếp cận thông tin chính thống. Do đó, việc bảo đảm ngân sách ổn định và phù hợp với đặc thù từng địa phương sẽ là cơ sở để triển khai các chương trình truyền thông bài bản, liên tục và có sức lan tỏa.

Bên cạnh nguồn lực tài chính, đa dạng hóa hình thức truyền thông cũng được xác định là giải pháp then chốt. Theo khảo sát, 83% người dân và cán bộ địa phương cho rằng việc sử dụng nhiều hình thức truyền thông là “rất cần thiết”, 17% cho là “cần thiết”. Điều này cho thấy nhận thức chung về tầm quan trọng của việc phối hợp các phương tiện như truyền thông trực tiếp, truyền hình, loa phát thanh, tranh ảnh minh họa, kịch bản tương tác, video ngắn, mạng xã hội… để tác động lên nhiều giác quan của người tiếp nhận. Trong bối cảnh nhiều người dân chưa quen với các hình thức truyền thông hiện đại, việc kết hợp truyền thống – hiện đại sẽ giúp nâng cao hiệu quả tiếp cận và ghi nhớ thông điệp.

Lồng ghép nội dung truyền thông vào các hoạt động của Hội, Đoàn thể tại địa phương cũng là một giải pháp khả thi và hiệu quả cao. Qua khảo sát, đa số người dân đều đồng thuận rằng việc lồng ghép truyền thông vào các cuộc họp thôn, sinh hoạt tổ chức đoàn thể, hội phụ nữ, hội nông dân... sẽ giúp thông điệp đến được đúng người, đúng thời điểm và dễ tạo được sự lan tỏa trong cộng đồng. Hơn nữa, cách làm này còn tận dụng được không gian sinh hoạt quen thuộc và sẵn có của người dân, tiết kiệm chi phí mà vẫn đảm bảo hiệu quả tuyên truyền.

Ngoài ra, việc đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ truyền thông chuyên trách cũng được đánh giá là giải pháp có tính chiến lược lâu dài. Đội ngũ này cần không chỉ có kiến thức về lâm nghiệp mà còn phải nắm vững kỹ năng truyền thông, khả năng sáng tạo nội dung phù hợp với từng nhóm đối tượng, từng vùng văn hóa khác nhau. Đặc biệt, tại các địa phương có sự đa dạng về dân tộc và trình độ dân trí, cán bộ truyền thông cần được trang bị khả năng ứng biến linh hoạt, hiểu tập quán địa phương để truyền tải thông điệp một cách thuyết phục và gần gũi.

Xây dựng tài liệu truyền thông trực quan, dễ hiểu, sinh động và sử dụng tiếng dân tộc là một trong những giải pháp cần thiết nhằm khắc phục rào cản về ngôn ngữ và văn hóa trong quá trình truyền thông. Việc sử dụng ngôn ngữ phổ thông đôi khi chưa thực sự hiệu quả đối với các nhóm dân cư thiểu số, nơi mà người dân ít sử dụng tiếng Việt trong sinh hoạt hằng ngày. Tài liệu nên được thiết kế với nhiều hình ảnh thực tế, nội dung súc tích, kèm minh họa sinh động, giúp người dân dễ hiểu, dễ nhớ và dễ áp dụng trong thực tiễn quản lý, bảo vệ rừng.

Đặc biệt, tăng cường kết nối đa bên giữa lực lượng kiểm lâm, cán bộ truyền thông, người dân và các tổ chức xã hội sẽ tạo thành một mạng lưới phối hợp chặt chẽ, bảo đảm tính liên ngành và cộng đồng trong công tác truyền thông. Truyền thông cần được lồng ghép với các mô hình phát triển sinh kế, du lịch sinh thái, nông – lâm kết hợp để người dân không chỉ hiểu được lợi ích môi trường mà còn thấy rõ lợi ích kinh tế cụ thể từ việc bảo vệ rừng. Khi truyền thông gắn với lợi ích trực tiếp, người dân sẽ chủ động tiếp nhận và thay đổi hành vi bền vững hơn.

Cuối cùng, trong bối cảnh chuyển đổi số, việc phát huy vai trò của báo điện tử, mạng xã hội và nền tảng kỹ thuật số là giải pháp cần được chú trọng. Đây là những công cụ có khả năng lan tỏa nhanh, chi phí thấp, đồng thời cho phép cá nhân hóa nội dung và tương tác thời gian thực với người tiếp nhận. Việc thiết kế nội dung truyền thông phù hợp với các nền tảng như Facebook, Zalo, YouTube, TikTok... không chỉ giúp tiếp cận giới trẻ mà còn giúp truyền thông trở nên linh hoạt, hấp dẫn và dễ tiếp cận hơn với đông đảo người dân.

4. Kết luận

Nghiên cứu đã chỉ ra rằng rừng mang lại nguồn lợi tổng hợp to lớn về kinh tế, môi trường và xã hội. Không chỉ cung cấp gỗ và lâm sản ngoài gỗ góp phần quan trọng vào kim ngạch xuất khẩu, rừng còn đóng vai trò thiết yếu trong sinh kế cộng đồng, đặc biệt ở vùng nông thôn và miền núi, đồng thời góp phần hấp thụ và lưu trữ một lượng lớn khí nhà kính, tạo tiền đề cho phát triển thị trường carbon.

Tuy nhiên, nhận thức của cộng đồng về quản lý rừng bền vững vẫn còn hạn chế. Mặc dù phần lớn người dân đã biết tới các chính sách, nhưng chỉ có 38% hiểu đúng nội dung, đặc biệt nhóm sống gần rừng, chủ rừng cá nhân và một số cán bộ cơ sở vẫn còn hiểu mơ hồ, dẫn đến khó triển khai hiệu quả các chính sách vào thực tiễn.

Công tác truyền thông về quản lý rừng bền vững được đánh giá có nhiều nỗ lực, với 68% người dân cho rằng hoạt động truyền thông hiện nay đạt mức tốt trở lên. Tuy nhiên, hiệu quả truyền thông vẫn còn khoảng cách với thực tế tiếp nhận và chuyển hóa thông tin: chỉ 46% hiểu rõ nội dung truyền thông và chỉ 37% cho rằng nội dung dễ hiểu, dễ áp dụng.

Các yếu tố thuận lợi cho truyền thông hiện nay bao gồm khung pháp lý hỗ trợ (82%), công nghệ truyền thông phát triển (81%) và sự tham gia tích cực của các bên liên quan (79%). Dù vậy, những khó khăn lớn vẫn tồn tại như thiếu kinh phí (79%), nội dung khô khan khó tiếp cận (68%), thiếu gắn kết lợi ích cụ thể với người dân (58%) và hình thức truyền thông thiếu hấp dẫn, tương tác còn thấp.

Từ những kết quả trên, nghiên cứu đề xuất một số giải pháp nâng cao hiệu quả truyền thông như: đảm bảo ngân sách ổn định cho truyền thông; đa dạng hóa hình thức truyền thông theo hướng kết hợp truyền thống và hiện đại; lồng ghép truyền thông vào sinh hoạt cộng đồng; đào tạo đội ngũ truyền thông chuyên nghiệp; xây dựng tài liệu trực quan, dễ hiểu, phù hợp ngữ cảnh văn hóa; và ứng dụng mạnh mẽ nền tảng số để tiếp cận nhóm dân cư trẻ, đồng thời gắn truyền thông với lợi ích kinh tế cụ thể để thúc đẩy hành vi bảo vệ rừng bền vững.

 

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn (2025). Quyết định số 561/QĐ-BNNM ngày 31/3/2025.

2. FAO (2020). The State of the World's Forests 2020.

3. Viện Khoa học Lâm nghiệp Việt Nam (2020). Báo cáo kết quả thực hiện REDD+ giai đoạn 2011–2018.

4. Vũ TP. 2022. Thương mại các bon trong Lâm nghiệp Việt Nam. Bài trình bày, Hội thảo quốc gia về thị trường các bon rừng sau COP27 và lộ trình chuyển đổi tại Việt Nam. Hà Nội, Việt Nam.    

5. Trần Văn Mão et al. (2021). “Nhận thức và thực hành bảo vệ rừng của cộng đồng địa phương.” Tạp chí Lâm nghiệp và Môi trường.

6. Brown, S., Zarin, D., & Dutschke, M. (2019). “Carbon Sequestration in Forests.” Annual Review of Environment and Resources.

7. Duong Thi Thanh et at. (2024) “Assessing the economic benefits of forest carbon reservoirs in Vietnam: implications for forest carbon trading market development .” Journal of Animal and Plant Sciences

8. Doãn Hà Phong và cộng sự (2024). Đánh giá hiện trạng và đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả truyền thông chính sách pháp luật tài nguyên và môi trường tại huyện Hậu Lộc, tỉnh Thanh Hóa. Tạp chí Tài nguyên và môi trường.

Đăng ký đặt báo