
Keo mô – “chìa khóa vàng” nâng năng suất rừng trồng
Tỉnh Thanh Hóa có khoảng 230.453 ha diện tích rừng trồng sản xuất, trong đó diện tích rừng trồng keo 102.463 ha (chiếm 41,46%), tập trung chủ yếu tại các địa bàn (huyện cũ trước đây): Như Thanh 17.838,98 ha, Như Xuân 17.393,08 ha, Thường Xuân 14.806 ha, Cẩm Thủy 8.784 ha, Ngọc Lặc 8.693 ha, Thạch Thành 8.077 ha, Lang Chánh 7.465,99 ha, Vĩnh Lộc 4.076 ha... rừng keo trên địa bàn hiện nay chủ yếu trồng bằng giống thực sinh (ươm từ hạt) là chính, do vậy năng suất, sản lượng chưa cao.
Để nâng cao năng suất, chất lượng gỗ rừng trồng và đặc biệt là rừng trồng gỗ lớn thì khâu giống có vai trò then chốt. Vì vậy việc xây dựng các mô hình trồng rừng bằng các giống mới, giống tiến bộ kỹ thuật là rất cần thiết, giúp đẩy mạnh tuyên truyền và giúp người dân, doanh nghiệp đến thăm quan, học tập, nhân rộng.

Viện Nông nghiệp Thanh Hóa đề xuất và được Bộ Nông nghiệp và Môi trường phê duyệt dự án “Xây dựng mô hình trồng rừng thâm canh gỗ lớn bằng cây Keo lai mô và Keo lá tràm mô” tại Quyết định số 2469/QĐ-BNN-BKHCN ngày 03/6/2021. Chủ nhiệm dự án TS. Nguyễn Trọng Quyền.
Thực hiện dự án, từ năm 2021-2023, Viện Nông nghiệp Thanh Hóa xây dựng mô hình trồng rừng thâm canh gỗ lớn bằng cây Keo lai mô với diện tích 103 ha, gồm các dòng AH1 (92 ha), AH7 (11 ha), trên địa bàn 07 xã/02 huyện (nay là 04 xã) thuộc tỉnh Thanh Hóa. Mô hình trồng rừng thuần loài, mật độ 1660 cây /ha; cây giống cao bình quân 25 cm, 8-9 lá trên một cây, túi bầu đường kính 6 cm x 10 cm; thời vụ trồng bắt đầu từ vụ Xuân (từ tháng 2 đến tháng 4); vụ Thu (từ tháng 7 đến tháng 9); hố trồng 30 x 30 x 30 cm; bón lót phân NPK (tỷ lệ 5: 10: 3): 0,2 kg/hố.
Kết quả theo dõi ô tiêu chuẩn rừng trồng (27 tháng tuổi) của mô hình cho thấy: Keo lai mô dòng AH1 đường kính D1.3 (bq) đạt 10,2cm, chiều sao vút ngọn Hvn (bq) 10,8m, tỷ lệ sống bình quân 90%, năng suất bình quân 31,6 m3/ha/năm; dòng AH7 đường kính D1.3 (bq) đạt 10,1cm, chiều sao vút ngọn Hvn (bq) đạt 10,7m), tỷ lệ sống bình quân 90%, năng suất bình quân 30,7 m3/ha/năm.
Dự kiến, sau 7 năm trồng, rừng trồng bằng giống Keo lai mô dòng AH1 đạt 221,2 m3/ha, AH7 đạt 214,9 m3/ha. Theo số liệu phỏng vấn người dân sở tại cho biết: trước đây hộ trồng rừng keo tai tượng 7 năm tuổi đạt khoảng 140,7m3/ha. Tổng hợp dự kiến chi phí, doanh thu và lợi nhuận rừng trồng được thể hiện qua bảng 02.

Như vậy, cùng thời gian, địa điểm như nhau, việc lựa chọn giống tốt đóng vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế rừng. Nếu chủ rừng chi phí thêm khoảng 4.199.800 đ/ha (bốn triệu một trăm chín mươi chín ngàn, tám trăm đồng) để mua giống tốt, thì lợi nhuận sẽ mang lại cao hơn từ 66,8% đến 73%, cụ thể dòng AH1 lợi nhuận đạt 124,3 triệu đ/ha (tăng 52,4 triệu đ/ha), dòng AH7 lợi nhuận 119,8 triệu đ/ha (tăng 48,0 triệu đ/ha) so với keo tai tượng. Từ kết quả thực hiện mô hình và những phân tích trên cho thấy giống keo lai mô đóng vai trò quan trọng trong tái cơ cấu rừng trồng kinh tế.
Nền tảng tái cơ cấu rừng trồng kinh tế
Tuy nhiên, để đẩy mạnh phát triển rừng trồng kinh tế bằng cây keo mô, nhà nước, người dân, doanh nghiệp cần lưu ý và quan tâm đến một số vấn đề sau:
Một là: Sản xuất giống keo lai mô cần đầu tư hạ tầng, nhân lực, công nghệ cao, mặc dù giá bán cây giống keo nuôi cấy mô cao hơn giống keo thông thường nhưng lợi nhuận so với mức đầu tư là thấp; cây giống nuôi cấy mô chủ yếu góp phần làm gia tăng lợi nhuận ở khâu trồng rừng (sinh trưởng nhanh), do vậy nhà nước cần quan tâm ban hành cơ chế, chính sách khuyến khích phát triển sản xuất giống công nghệ cao nuôi cấy mô để thúc đẩy phát triển vùng nguyên liệu gắn với công nghiệp chế biến.

Hai là: Giống keo mô giá thành cao, cây sinh trưởng nhanh (rất khó lưu vườn, cây đủ tiêu chuẩn cần phải xuất vườn ngay; thường giống cây keo lai mô không sẵn có bán trên thị trường, hiện nay phần lớn được sản xuất theo đơn đặt hàng), chủ rừng cần hợp đồng đặt hàng sản xuất giống trước từ 3-6 tháng mới có giống kịp thời vụ trồng.
Ba là: Cây Keo lai mô sinh trưởng nhanh, thân cây cao thẳng, dễ gãy đổ khi bị gió bão, do vậy trồng rừng phải tuân thủ đào hố đảm bảo kích thước, mật độ, khoảng cách và cần “trồng thẳng hàng thẳng lối” nhằm tăng cường bộ rễ, hạn chế sức cản của gió bão làm gãy cây.
Bốn là: Đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền về mô hình để người dân, doanh nghiệp biết, chuyển đổi sử dụng giống tốt vào trồng rừng.

Năm là: Chính quyền các cấp, doanh nghiệp liên kết phát triển vùng nguyên liệu cần có cơ chế, chính sách, giải pháp hỗ trợ, khuyến khích chủ rừng chuyển đổi từ các giống thực sinh (trồng bằng hạt) và các giống xô bồ, kém chất lượng sang sử dụng giống keo mô để nâng cao trữ lượng, giá trị và lợi nhuận rừng trồng./.
TS. Nguyễn Trọng Quyền - Trưởng phòng Khoa học - Viện Nông nghiệp Thanh Hóa