Đây được coi là một cột mốc chiến lược để Việt Nam hiện thực hóa khát vọng hùng cường. Để Nghị quyết đi vào cuộc sống và đạt được các mục tiêu đầy tham vọng, vai trò và trách nhiệm của các địa phương, đặc biệt là các đơn vị khoa học, công nghệ, có ý nghĩa quyết định.
Khoa học, công nghệ và chuyển đổi số – động lực phát triển mới
Công tác khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số luôn được Đảng và Nhà nước đặc biệt quan tâm. Từ Đại hội VI (1986) đến nay, nhiều chủ trương, quyết sách lớn đã được ban hành. Nghị quyết số 02-NQ/HNTW (1996) của Hội nghị Trung ương 2 khóa VIII định hướng chiến lược phát triển khoa học và công nghệ trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa; Nghị quyết số 20-NQ/TW (2012) của Hội nghị Trung ương 6 khóa XI về phát triển khoa học và công nghệ phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế; Nghị quyết số 52-NQ/TW (2019) của Bộ Chính trị khóa XIII về một số chủ trương, chính sách chủ động tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư; và Kết luận số 69-KL/TW (2024) tiếp tục thực hiện Nghị quyết 20-NQ/TW, khẳng định lại vai trò nền tảng, động lực của khoa học và công nghệ trong phát triển đất nước.
Những nghị quyết, kết luận trên tạo hành lang quan trọng cho phát triển khoa học và công nghệ. Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy tốc độ phát triển của nước ta còn chậm, chưa tạo được bước bứt phá. Quy mô, tiềm lực, trình độ khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo vẫn còn khoảng cách xa so với nhóm nước phát triển. Nhận thức về chuyển đổi số ở nhiều cấp, nhiều ngành, trong đội ngũ cán bộ, công chức và cả nhân dân vẫn chưa thật đầy đủ. Nghiên cứu, ứng dụng công nghệ lõi, công nghệ chiến lược chưa thành công; thể chế, cơ chế, chính sách còn chậm đổi mới; nguồn nhân lực chất lượng cao khan hiếm; hạ tầng số chưa đồng bộ; an ninh, an toàn thông tin, bảo vệ dữ liệu đối mặt với nhiều thách thức.
Nguyên nhân quan trọng là cơ chế thực thi chưa hiệu quả. Tư duy quản lý chậm đổi mới, nặng về thủ tục khiến các giải pháp dễ bị vô hiệu hóa hoặc thực hiện không triệt để. Có thể nói khoa học và công nghệ Việt Nam chưa thực sự thúc đẩy mạnh mẽ phát triển kinh tế - xã hội như kỳ vọng, chưa tương xứng với vai trò “nền tảng, động lực” và “quốc sách hàng đầu” mà Đảng và Nhà nước xác định. Đặc biệt, tỷ lệ khai thác, thương mại hóa sản phẩm nghiên cứu phát triển còn thấp, làm giảm hiệu quả đầu tư.
Nghị quyết 57 – cột mốc chiến lược, mục tiêu rõ ràng
Ngày 22/12/2024, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 57-NQ/TW về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia, coi đây là một trong những trụ cột chiến lược để Việt Nam hiện thực hóa khát vọng hùng cường.
Điểm mới nổi bật của Nghị quyết là đưa ra những chỉ tiêu cụ thể cần đạt. Đến năm 2030, Việt Nam phấn đấu thuộc nhóm 3 nước dẫn đầu Đông Nam Á, nhóm 50 nước hàng đầu thế giới về năng lực cạnh tranh số và chỉ số phát triển Chính phủ điện tử; thuộc nhóm 3 nước dẫn đầu khu vực về nghiên cứu và phát triển trí tuệ nhân tạo; trở thành trung tâm phát triển một số ngành, lĩnh vực công nghiệp công nghệ số có lợi thế. Đóng góp của năng suất nhân tố tổng hợp (TFP) vào tăng trưởng kinh tế đạt trên 55%. Tỷ trọng xuất khẩu sản phẩm công nghệ cao đạt tối thiểu 50% tổng giá trị xuất khẩu. Quy mô kinh tế số chiếm ít nhất 30% GDP.
Bên cạnh đó, tỷ lệ sử dụng dịch vụ công trực tuyến của người dân và doanh nghiệp đạt trên 80%; tỷ lệ giao dịch không dùng tiền mặt đạt 80%; có trên 40% doanh nghiệp thực hiện đổi mới sáng tạo. Việt Nam phấn đấu phủ sóng 5G toàn quốc; hoàn thành xây dựng, kết nối, chia sẻ đồng bộ các cơ sở dữ liệu quốc gia, cơ sở dữ liệu ngành, khai thác hiệu quả tài nguyên số, hình thành sàn giao dịch dữ liệu. Một loạt chỉ tiêu khác cũng được xác định rõ như chi cho R&D đạt 2% GDP, trong đó xã hội hóa chiếm hơn 60%; ít nhất 3% tổng chi ngân sách hằng năm cho khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số.
Đây là những mục tiêu lớn, có tính thách thức, nhưng cũng cho thấy quyết tâm mạnh mẽ của Đảng trong việc coi khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số là cột mốc chiến lược để đất nước bứt phá. Thời gian từ nay đến năm 2030 không còn nhiều, buộc từng cấp, từng ngành, từng địa phương phải nghiêm túc xây dựng kế hoạch khả thi, triển khai quyết liệt và đồng bộ.
Trách nhiệm của địa phương trong triển khai nghị quyết
Trong triển khai nghị quyết, các đơn vị khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số ở địa phương giữ vai trò đặc biệt quan trọng. Trước hết, cần đổi mới mạnh mẽ công tác quản lý khoa học. Hội đồng, tổ chuyên môn phải được nâng cao chất lượng, có năng lực đánh giá, tuyển chọn và phê duyệt nhiệm vụ khoa học, công nghệ theo hướng rõ ràng về tính mới, tính cấp thiết và khả năng ứng dụng. Thủ tục hành chính phải được tinh gọn để tránh tình trạng mất thời gian, làm giảm tính chủ động của các đơn vị nghiên cứu. Việc giám sát, kiểm tra cần thực chất, tránh quản lý hình thức trên hồ sơ. Người làm công tác quản lý phải có trình độ chuyên môn sâu, đủ năng lực đánh giá tiến độ, chất lượng sản phẩm, kịp thời kiến nghị điều chỉnh hoặc dừng nhiệm vụ nếu không đạt yêu cầu.
Nguồn nhân lực là yếu tố quyết định thành bại. Đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số chỉ có thể được thực hiện bằng cả trí tuệ và nhiệt huyết của con người. Do vậy, các địa phương cần chú trọng đào tạo, bồi dưỡng và sử dụng nhân lực có năng lực, tâm huyết; đồng thời, tạo cơ chế khuyến khích để họ gắn bó, cống hiến lâu dài. Việc lựa chọn chủ nhiệm nhiệm vụ phải dựa trên trình độ, kinh nghiệm và cam kết trách nhiệm.
Bên cạnh đó, cần khắc phục tình trạng “nghiên cứu xong cất vào tủ”. Các nhiệm vụ khoa học, công nghệ sau khi kết thúc phải được xây dựng phương án khai thác, ứng dụng thực tế, có cơ chế giám sát cụ thể. Một hệ thống cơ sở dữ liệu quản lý khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số ở địa phương cần được hình thành, gắn với nhu cầu thực tế của sản xuất và đời sống.
Chính sách khuyến khích thương mại hóa sản phẩm cũng cần đổi mới. Chủ nhiệm nhiệm vụ và nhóm nghiên cứu phải được trao quyền khai thác, tiếp cận vốn vay, được hỗ trợ khởi nghiệp để phát triển sản phẩm. Cơ chế này không chỉ thúc đẩy tinh thần sáng tạo, mà còn tránh lãng phí đầu tư nghiên cứu của Nhà nước.
Một yêu cầu quan trọng khác là nâng cao hiệu quả thanh tra, kiểm tra và thực thi pháp luật. Phải kịp thời phát hiện, ngăn chặn, xử lý các vi phạm, tránh để thất thoát nguồn lực. Đặc biệt, cần bảo vệ nguồn nhân lực khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số – lực lượng tuy nhỏ nhưng có vai trò quyết định đối với sự phát triển của đất nước.
Nghị quyết số 57-NQ/TW của Bộ Chính trị đã mở ra cơ hội và cũng đặt ra thách thức lớn đối với phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số ở Việt Nam. Để nghị quyết đi vào cuộc sống, từng địa phương, từng đơn vị phải thực sự đổi mới, quyết liệt và đồng bộ trong triển khai. Đổi mới quản lý, phát triển nhân lực, ứng dụng hiệu quả kết quả nghiên cứu, tăng cường giám sát, hoàn thiện cơ chế chính sách sẽ là những bước đi cần thiết để hiện thực hóa mục tiêu.
Chỉ khi những giải pháp này được thực thi một cách thực chất, khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo mới trở thành động lực then chốt, góp phần đưa Việt Nam phát triển nhanh, bền vững và hiện thực hóa khát vọng hùng cường vào năm 2045./.
TS. Nguyễn Trọng Quyền – Trưởng phòng Quản lý khoa học – Viện Nông nghiệp Thanh Hóa