Xuất khẩu thủy sản thích ứng nhanh với xu thế mới từ đa dạng hóa sản phẩm tới chiến lược tăng trưởng bền vững

Qua 2 tháng đầu năm 2025, tổng kim ngạch xuất khẩu thủy sản đạt hơn 1,42 tỷ USD, tăng 18,2% so với cùng kỳ năm 2024. Tôm tiếp tục là "ngôi sao sáng", trong khi cá tra đối mặt với nhiều khó khăn và các sản phẩm khai thác như cá ngừ, mực, bạch tuộc chịu áp lực từ quy định quốc tế. Để phát triển bền vững, ngành thủy sản đang hướng tới đa dạng hóa sản phẩm và nâng cao giá trị gia tăng.
phat-trien-thuy-san-ben-vung-3-1741662777.jpg
Qua 2 tháng đầu năm 2025, tổng kim ngạch xuất khẩu thủy sản đạt hơn 1,42 tỷ USD, tăng 18,2% so với cùng kỳ năm 2024, trong đó tháng 2 đạt 655 triệu USD, tăng 42,6%. (Ảnh minh họa)

Những thách thức đòi hỏi đa dạng hóa các sản phẩm theo xu thế thị trường

Theo Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu Thủy sản Việt Nam (VASEP), 2 tháng đầu năm 2025, tổng kim ngạch xuất khẩu thủy sản đạt hơn 1,42 tỷ USD, tăng 18,2% so với cùng kỳ năm 2024, trong đó tháng 2 đạt 655 triệu USD, tăng 42,6%.

Ngành hàng tôm tiếp tục khẳng định vị thế chủ lực, đóng góp hơn 542 triệu USD trong 2 tháng đầu năm 2025, tăng 30,8% so với cùng kỳ năm 2024. Giá nhập khẩu trung bình tăng từ tháng 10/2024 và dự kiến duy trì ở mức cao suốt năm 2025 nhờ tồn kho ổn định, mang lại niềm tin cho cả nhà xuất khẩu và nhập khẩu. VASEP nhận định, triển vọng ngành tôm khá lạc quan, miễn là các yếu tố bất ổn như chiến tranh thương mại dưới chính quyền Trump không gây gián đoạn. Thị trường Trung Quốc, EU và Mỹ – những điểm đến chính của tôm Việt Nam đang duy trì nhu cầu mạnh, đặc biệt với các sản phẩm chế biến sâu như tôm hấp, tôm lột vỏ.

Ngược lại, cá tra đang đối mặt với nhiều khó khăn, với kim ngạch xuất khẩu 2 tháng đầu năm 2025 đạt hơn 253 triệu USD, giảm 0,8% so với cùng kỳ năm trước. Giá nguyên liệu tăng do chi phí đầu vào (thức ăn, nhân công) leo thang, kết hợp với chính sách thuế quan bất lợi từ Mỹ – thị trường lớn nhất của cá tra Việt Nam. Mức thuế bổ sung 10% áp lên thủy sản chế biến từ Trung Quốc đã gián tiếp ảnh hưởng đến dòng chảy thương mại toàn cầu, khiến nhu cầu tại Mỹ ảm đạm và tồn kho tăng cao.

VASEP cảnh báo người nuôi cá tra cần thận trọng, tránh mở rộng sản xuất tự phát. "Giá hiện tại có thể mang tính 'ảo' và dễ lao dốc nếu cung vượt cầu", đại diện VASEP nhận định. Để vượt qua thách thức, ngành cá tra cần liên kết chặt chẽ với doanh nghiệp, áp dụng công nghệ nuôi hiện đại như hệ thống tuần hoàn nước (RAS) và tập trung vào sản phẩm giá trị gia tăng như fillet cá tra đông lạnh, cá tra hun khói. Đây là chìa khóa để duy trì lợi thế cạnh tranh trước sự cạnh tranh từ các nước như Ấn Độ và Indonesia.

Xuất khẩu cá ngừ đạt hơn 126 triệu USD trong 2 tháng đầu năm 2025, giảm nhẹ 3,5% so với cùng kỳ năm 2024. Thị trường Nhật Bản – điểm đến chính của cá ngừ Việt Nam duy trì giá ổn định nhưng ở mức thấp. Các sản phẩm khai thác khác như mực, bạch tuộc (101 triệu USD, tăng 13,8%) và cua ghẹ (63 triệu USD, tăng 86,1%) cho thấy tiềm năng lớn, đặc biệt tại Trung Quốc. Tuy nhiên, thách thức từ quy định chống đánh bắt bất hợp pháp, không báo cáo và không theo quy định (IUU) của EU và Đạo luật Bảo vệ Động vật có vú ở biển (MMPA) của Mỹ đang là rào cản lớn.

Quy định kích thước tối thiểu cá ngừ vằn 0,5m trong Nghị định 37/2024 gây khó khăn cho ngư dân và doanh nghiệp trong việc đảm bảo nguyên liệu. Hoa Kỳ đã thông báo không công nhận Việt Nam tương đương với tiêu chuẩn MMPA, đe dọa cấm nhập khẩu nhiều loài hải sản từ ngày 1/1/2026 nếu không có cải thiện. Để vượt qua, cần sự phối hợp quyết liệt giữa Chính phủ, doanh nghiệp và ngư dân để hoàn thiện khung pháp lý, nâng cao năng lực giám sát và hỗ trợ tuân thủ tiêu chuẩn quốc tế.

phat-trien-thuy-san-ben-vung-2-1741662823.jpg
Xuất khẩu thủy sản Việt Nam đang trên đà phục hồi mạnh mẽ, đặc biệt là tôm và cá tra. Tuy nhiên, những thách thức về chính sách thương mại, cạnh tranh quốc tế, và các quy định siết chặt từ EU, Mỹ vẫn là rào cản lớn.(Ảnh minh họa)

Xuất khẩu thủy sản Việt Nam đang trên đà phục hồi mạnh mẽ, đặc biệt là tôm và cá tra. Tuy nhiên, những thách thức về chính sách thương mại, cạnh tranh quốc tế, và các quy định siết chặt từ EU, Mỹ vẫn là rào cản lớn.

Năm 2024, bất chấp các khó khăn về thị trường tiêu thụ lẫn hoạt động nuôi trồng, chế biến và xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam đã về đích ấn tượng, với giá trị xuất khẩu 10 tỷ USD, tăng 12,7% so với năm 2023.

Đây cũng lần thứ 2, ngành thuỷ sản cả nước chinh phục mốc 10 tỷ USD. Tôm vẫn là mặt hàng xuất khẩu chủ lực khi mang về 4 tỷ USD (tăng trưởng 17%), tiếp đến là cá tra với 2 tỷ USD và cá ngừ với 1 tỷ USD.

Bộ Nông nghiệp và Môi trường hiện đặt mục tiêu tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản năm nay ở mức 10 - 15%, tiến tới mục tiêu 11 tỷ USD. Theo đánh giá của nhiều hãng chứng khoán, mục tiêu trên là hoàn toàn khả thi trong bối cảnh nhu cầu tại các thị trường trọng điểm, đặc biệt là Mỹ, đang dần phục hồi và doanh nghiệp đang tích cực đa dạng hoá thị trường.

Nhiều chuyên gia đánh giá Hiệp định Đối tác kinh tế toàn diện Việt Nam - Các tiểu vương quốc Ả-rập Thống nhất (UAE) (CEPA), được ký kết vào cuối tháng 10/2024, sẽ mở ra dư địa tăng trưởng mới cho ngành thuỷ sản Việt Nam, đặc biệt là các sản phẩm tôm và cá chế biến, có giá trị gia tăng cao.

Mức tiêu thụ thủy sản bình quân đầu người của UAE cao hơn mức trung bình của thế giới với 90% lượng thủy sản tiêu thụ đến từ việc nhập khẩu. UAE nhập khẩu khoảng 250.000 tấn thủy sản/năm, trị giá 750 - 800 triệu USD, trong đó thị phần của Việt Nam mới chỉ dao động từ 6% - 9% với mặt hàng chính là cá tra fillet đông lạnh.

UAE cam kết xóa bỏ thuế quan ngay khi Hiệp định CEPA có hiệu lực đối với nhiều ngành hàng chủ lực và có tiềm năng xuất khẩu lớn của Việt Nam. Hiện các sản phẩm cá tra, cá ngừ và cá biển khác nhập khẩu vào UAE đang bị áp mức thuế 5%. Do đó Hiệp định CEPA sẽ là cú hích cho xuất khẩu thủy sản Việt Nam sang thị trường UAE khi mức thuế giảm về 0%.

Ngoài ra, với việc sở hữu các trung tâm logistics lớn, UAE là cửa ngõ thương mại quan trọng tại Trung Đông, kết nối với nhiều quốc gia lớn trong khu vực. Thông qua UAE, các sản phẩm thuỷ sản của Việt Nam được kỳ vọng dễ dàng tiếp cận các thị trường lớn khác trong khu vực như Ả-rập Xê-út, Qatar, Kuwait, cũng như một số nước ở Bắc Phi và Tây Á với quy mô lên tới 2.000 tỷ USD.

Chiến lược phát triển bền vững từ nuôi biển

Theo ông Trần Đình Luân, Cục trưởng Cục Thủy sản (Bộ Nông nghiệp và Môi trường): "Sự chỉ đạo đồng bộ từ Trung ương đến địa phương đã giúp phát huy tối đa hiệu quả sản xuất, đảm bảo nguồn nguyên liệu dồi dào".

Năm 2024, xuất khẩu thủy sản Việt Nam đạt hơn 10 tỷ USD – một kết quả ấn tượng trong bối cảnh nhiều khó khăn. Ông Trần Đình Luân đánh giá: "Thành công này đến từ sự linh hoạt, nhanh nhạy của các cơ quan quản lý, doanh nghiệp và người dân". Sự tổ chức sản xuất theo chuỗi liên kết đã tạo tiền đề quan trọng để ngành duy trì đà tăng trưởng trong năm 2025.

Dù chưa có yêu cầu bắt buộc về giảm phát thải, Cục Thủy sản nhận thức đây là xu hướng tất yếu để đáp ứng tiêu chuẩn quốc tế. Các mô hình nuôi cải tiến – giảm hệ số chuyển đổi thức ăn, tăng tỷ lệ sống và giảm phát thải – đang được triển khai cho tôm, cá tra và nuôi biển. "Chúng tôi xây dựng mô hình liên kết giữa doanh nghiệp và nhà sáng kiến để cải tiến kỹ thuật, tính toán lượng phát thải cụ thể", ông Luân cho biết. Mô hình nuôi kết hợp cá, nhuyễn thể và rong biển đang chứng minh hiệu quả kinh tế và môi trường, là hướng đi cần nhân rộng.

phat-trien-thuy-san-ben-vung-4-1741662867.jpg
Nhiều địa phương đã chú trọng nuôi biển để giảm khai thác hải sản, tăng nuôi trồng hải sản và bảo tồn giữ gìn đa dạng sinh thái biển. (Ảnh minh họa)

Thay vì "loanh quanh" với tôm và cá tra, ngành sẽ không mở rộng diện tích nuôi mà tập trung nâng cao chất lượng và chế biến sâu. Các đối tượng mới như lươn (đã có giá trị xuất khẩu cao), cá rô phi (tiềm năng tại miền Bắc), hàu, rong biển, bào ngư và hải sâm đang được đẩy mạnh. Ông Luân nhấn mạnh: "Đối với nuôi biển xa bờ, nếu giao mặt nước ngoài 6 hải lý cho doanh nghiệp đầu tư quy mô lớn, đây sẽ là thế mạnh bứt phá". Việc khai thác tiềm năng hồ chứa, sông ngòi và tổ chức sản xuất theo chuỗi liên kết cũng là ưu tiên.

Theo ông Luân nhìn nhận, tới đây ngành thủy sản cần đầu tư vào truy xuất nguồn gốc, chứng nhận bền vững và đào tạo ngư dân. Đồng thời, tăng cường hợp tác quốc tế để đàm phán với EU, Mỹ, đảm bảo không bị cấm nhập khẩu. Các sản phẩm giá trị gia tăng như nhuyễn thể có vỏ (tăng 121,6%) và cua ghẹ (tăng 86,1%) cần được khai thác tối đa, nhắm đến thị trường Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc.

Hiện nay, nuôi biển đóng vai trò đặc biệt quan trọng trong phát triển kinh tế biển, nhằm đưa nước ta trở thành một quốc gia mạnh về biển, giàu từ biển trong thế kỷ của biển và đại dương.

Để cụ thể hóa chiến lược này, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 1664/QĐ-TTg phê duyệt Đề án nuôi biển đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.

Đề án đặt mục tiêu đến năm 2025, diện tích nuôi biển đạt 280.000ha, sản lượng 850.000 tấn, kim ngạch xuất khẩu 0,8 - 1 tỉ USD. Đến 2030, diện tích nuôi biển đạt 300.000ha, sản lượng 1,45 triệu tấn, kim ngạch xuất khẩu đạt 1,8 - 2 tỉ USD.

Định hướng phát triển ngành nuôi biển của nước ta thời gian tới là phát triển nuôi biển công nghiệp với công nghệ tiên tiến, quy hoạch chặt chẽ, phương thức quản lý hiện đại.

Phát triển nuôi biển cả trong vùng ven bờ, trên vùng biển xa bờ, ngoài khơi xa và cả trên bờ, phát huy đa dạng sinh học của vùng nhiệt đới. Tích hợp nguồn lực kinh tế kỹ thuật các ngành dầu khí, đóng tàu, vận tải biển, cơ khí hệ sinh thái, bảo đảm phát triển bền vững, hiện đại.

phat-trien-thuy-san-ben-vung-1-1741662752.jpg
Nhiều doanh nghiệp và hộ dân ứng dụng công nghệ nuôi lồng bằng vật liệu mới HDPE đạt hiệu quả cao về sản lượng trong nuôi biển.(Ảnh minh họa)

Theo VASEP, mục tiêu năm 2030 xuất khẩu từ 14-16 tỷ USD, có nghĩa hàng năm phải duy trì tốc độ tăng trưởng từ 10-15%. Đây là điều không dễ dàng trong bối cảnh thị trường tiêu thụ thủy sản toàn cầu được dự báo chỉ tăng trưởng hàng năm 5-6%.

Cục Thủy sản cho rằng, để đạt mục tiêu của năm 2025, cần triển khai đồng bộ, thống nhất trên cả nước các chương trình, đề án, kế hoạch phát triển ngành thủy sản thực hiện Chiến lược đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt. Chuyển đổi từ tư duy sản xuất sang tư duy kinh tế thủy sản và chuyển từ tăng trưởng đơn giá trị sang tăng trưởng tích hợp đa giá trị, chú trọng nuôi trồng. Tập trung phát triển kinh tế thủy sản theo hướng bền vững, thích ứng với biến đổi khí hậu, nâng cao sức cạnh tranh cho sản phẩm. 

Đồng quan điểm, VASEP cũng xác định nuôi trồng là mũi nhọn chiến lược, đặc biệt phát triển các đối tượng nuôi chủ lực có giá trị kinh tế cao, làm nguồn cung nguyên liệu chính để phát triển xuất khẩu, đảm bảo tăng trưởng bền vững. Cần ứng dụng công nghệ cao trong sản xuất và chế biến để nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm./.

Đăng ký đặt báo