Nội dung trên được Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Đỗ Đức Duy nhấn mạnh tại cuộc làm việc với lĩnh vực lâm nghiệp vào sáng 6/3 vừa qua.
Lâm nghiệp cần định hướng đa mục tiêu, đảm bảo an sinh xã hội
Bộ trưởng Đỗ Đức Duy nhấn mạnh: "Rừng không chỉ là nguồn gỗ mà còn là tài nguyên thiên nhiên đa giá trị – bảo vệ môi trường, duy trì sinh thái và chống biến đổi khí hậu". Với diện tích đất quy hoạch lâm nghiệp 15,8 triệu ha, trong đó 14,8 triệu ha có rừng (chiếm 93%) và gần 8 triệu ha là rừng sản xuất, ngành lâm nghiệp đang có dư địa phát triển đáng kể. Giá trị sản xuất tăng bình quân 4,7%/năm trong thời gian qua, cùng với xuất siêu chiếm 60% thặng dư thương mại cả nước, cho thấy ngành đã đạt nhiều thành tựu quan trọng. Tuy nhiên, Bộ trưởng chỉ ra rằng tiềm năng này chưa được khai thác tương xứng do những hạn chế về thể chế, đầu tư và ứng dụng công nghệ.
Người đứng đầu Bộ Nông nghiệp và Môi trường đánh giá, các thế hệ lãnh đạo ngành lâm nghiệp đã thực hiện nhiều nhiệm vụ to lớn, như xây dựng hệ thống pháp luật hoàn thiện, chi tiết đến nhiều lĩnh vực; tổ chức sản xuất có những bước tiến rõ rệt, từng bước phát triển lâm nghiệp thành một ngành kinh tế; xuất siêu lớn, chiếm khoảng 60% thặng dư thương mại của cả nền kinh tế.
Tuy nhiên, ông cũng chỉ ra một số tồn tại, hạn chế như ngành lâm nghiệp chưa phát triển tương xứng với tiềm năng; thể chế, chính sách chưa đồng bộ, chưa đủ mạnh để thúc đẩy sự phát triển bền vững của ngành; việc đầu tư vào ngành lâm nghiệp, từ Trung ương đến địa phương, chưa thỏa đáng; việc ứng dụng khoa học công nghệ còn chậm, chưa đáp ứng được nhu cầu quản lý, bảo vệ rừng, cũng như ứng phó với biến đổi khí hậu, thiên tai, thời tiết cực đoan; nhận thức của một bộ phận chủ rừng chưa thật đầy đủ.
Tình trạng chồng lấn chủ rừng, vốn có yếu tố lịch sử, chưa được giải quyết dứt điểm; hạ tầng giao thông phục vụ quản lý, bảo vệ rừng còn yếu kém; mâu thuẫn giữa việc chuyển đổi đất rừng để phát triển kinh tế với bảo đảm độ che phủ; cạnh tranh thương mại ngày một gia tăng.
Báo cáo tại cuộc làm việc, Thứ trưởng Nguyễn Quốc Trị thừa nhận, nhiều dự án bảo vệ rừng, phát triển rừng trồng, nâng cao chất lượng rừng tự nhiên, bảo tồn thiên nhiên, nghiên cứu khoa học về rừng… chưa được quan tâm đầu tư đầy đủ. Nguồn vốn cho phát triển rừng thiếu bền vững, do chu kỳ sản xuất kinh doanh của cây lâm nghiệp thường dài ngày, nhiều rủi ro. Việc bảo vệ và phục hồi rừng tự nhiên, bảo tồn đa dạng sinh học tốn chi phí nhưng lợi ích kinh tế mang lại không thể thu hồi trong ngắn hạn.
Bên cạnh vấn đề thiếu nhân lực có trình độ chuyên môn cao, thiếu chính sách đãi ngộ thỏa đáng với lực lượng lao động lâm nghiệp và bảo vệ rừng chuyên trách, Thứ trưởng Nguyễn Quốc Trị còn nhấn mạnh tới yếu tố phân tán trong công tác quản lý. Theo đó, cả nước có gần 1,2 triệu chủ rừng, trong đó khoảng 2.000 chủ rừng (chủ yếu là công ty nhà nước) chiếm tới 50% tổng diện tích rừng. Có nơi chủ rừng là hộ cá nhân lại sống xen kẽ với chủ rừng nhà nước, khiến việc thay đổi tập quán canh tác của 20 triệu người dân sinh sống tại vùng đệm các khu rừng gặp rào cản.
“Quy hoạch lâm nghiệp thường bị điều chỉnh bởi các quy hoạch khác, liên quan đến phát triển giao thông, hạ tầng, kinh tế. Ngoài ra, những người làm lâm nghiệp còn trăn trở vì Nhà nước có nhiều chương trình hỗ trợ, đầu tư cho quản lý, bảo vệ rừng, nhưng mỗi chương trình lại có 1 chính sách riêng, dễ chồng chéo”, Thứ trưởng bày tỏ.
Ngành lâm nghiệp đã và đang đẩy mạnh phân cấp phân quyền cho địa phương. Trong năm 2024, Bộ đã tham mưu Chính phủ ban hành nhiều Nghị định để tháo gỡ khó khăn cho địa phương, nhất là vấn đề chuyển mục đích sử dụng rừng. Bên cạnh đó, việc cấp mã số vùng trồng rừng được triển khai thí điểm ở 10 tỉnh, bước đầu thu được tín hiệu tích cực, tạo cơ sở để Bộ tiến tới xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu về rừng trồng và truy xuất nguồn gốc gỗ trên cả nước.
Ông Trần Quang Bảo, Cục trưởng Cục Lâm nghiệp và Kiểm lâm, Bộ Nông nghiệp và Môi trường kiến nghị bổ sung tiền thu từ dịch vụ môi trường rừng (khoảng 3.000 tỷ đồng/năm) vào giá trị sản xuất của ngành, nhằm phản ánh đầy đủ đóng góp của lâm nghiệp vào kinh tế - xã hội. Đây là nguồn lực quan trọng để tái đầu tư, nâng cao chất lượng rừng và hỗ trợ cộng đồng sống gần rừng.
Lâm nghiệp không chỉ là kinh tế mà còn gắn với bảo vệ môi trường
“Phát triển lâm nghiệp thành ngành kinh tế bền vững, đa mục tiêu là điều phải hướng tới. Lâm nghiệp không chỉ đơn thuần là phát triển kinh tế mà còn gắn liền với bảo vệ môi trường, bảo tồn sinh thái và phát triển bền vững”, Đỗ Đức Duy Bộ trưởng nhận định. Ông cũng lưu ý tới tín chỉ carbon (một nguồn tài nguyên quý giá của Việt Nam) và dự báo đây sẽ sớm là một công cụ mạnh mẽ trong các cuộc đàm phán quốc tế.
Ngành lâm nghiệp Việt Nam đang chuyển mình từ vùng "tăng trưởng an toàn" sang giai đoạn bứt phá bền vững. Với chiến lược đa mục tiêu, ứng dụng công nghệ và hoàn thiện thể chế.
Để đưa ngành lâm nghiệp bứt phá, Bộ trưởng Đỗ Đức Duy định hướng phát triển theo hướng "đa giá trị, đa mục tiêu". "Lâm nghiệp không chỉ là kinh tế mà còn gắn với bảo vệ môi trường, bảo tồn sinh thái và phát triển bền vững", ông nhấn mạnh. Chiến lược này tập trung vào các nhóm nhiệm vụ chính:
Thứ nhất là hoàn thiện thể chế và chính sách. Bộ trưởng Đỗ Đức Duy yêu cầu rà soát và hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật, xử lý chồng chéo giữa quản lý rừng với các lĩnh vực như đất đai, bảo tồn đa dạng sinh học. Năm 2024, Bộ đã tham mưu Chính phủ ban hành nhiều nghị định tháo gỡ khó khăn cho địa phương, đặc biệt trong chuyển mục đích sử dụng rừng. Việc đơn giản hóa thủ tục hành chính và tăng cường phối hợp với các ngành, địa phương sẽ tạo cơ chế hỗ trợ để người dân yên tâm sống gần rừng.
Thứ hai là cơ cấu lại ngành và ứng dụng công nghệ. Phát triển lâm nghiệp bền vững đòi hỏi thay đổi phương thức sản xuất và nâng cao chất lượng rừng. Bộ trưởng chỉ đạo đẩy mạnh ứng dụng khoa học công nghệ trong quản lý, bảo vệ rừng và ứng phó thiên tai. Việc cấp mã số vùng trồng rừng đã được thí điểm tại 10 tỉnh trong năm 2024, mang lại tín hiệu tích cực. Đây là tiền đề để xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu rừng trồng và truy xuất nguồn gốc gỗ trên toàn quốc, tăng tính minh bạch và giá trị xuất khẩu.
Thứ ba là phát triển kinh tế đa dạng từ rừng. Ngoài khai thác gỗ, Bộ trưởng Đỗ Đức Duy khuyến khích phát triển các mô hình kinh tế dưới tán rừng, du lịch sinh thái và bảo tồn. Bộ trưởng nhấn mạnh vai trò của tín chỉ carbon – nguồn tài nguyên quý giá của Việt Nam – như một công cụ đàm phán quốc tế trong tương lai. "Tín chỉ carbon sẽ sớm trở thành lợi thế cạnh tranh của ngành lâm nghiệp", ông dự báo. Đồng thời, tuyên truyền và tập huấn cộng đồng về vai trò đa giá trị của rừng sẽ thay đổi nhận thức, khuyến khích người dân tham gia bảo vệ và phát triển rừng bền vững.
Cuối cùng là đầu tư và phát triển nguồn nhân lực. Về nội dung này, Thứ trưởng Nguyễn Quốc Trị thừa nhận nguồn vốn cho phát triển rừng còn thiếu bền vững do chu kỳ sản xuất dài và nhiều rủi ro. Các dự án bảo vệ rừng tự nhiên, nâng cao chất lượng rừng và bảo tồn đa dạng sinh học đòi hỏi chi phí lớn nhưng lợi ích kinh tế ngắn hạn không rõ ràng.
Bộ trưởng Đỗ Đức Duy chỉ đạo ngành lâm nghiệp nghiên cứu chính sách khuyến khích bảo vệ môi trường, phát triển thị trường tín chỉ carbon và nâng cao đãi ngộ cho lực lượng lao động lâm nghiệp. "Mức khoán bảo vệ rừng hiện nay quá thấp, khó đảm bảo đời sống người dân", Bộ trưởng nhấn mạnh đây là rào cản trong xây dựng nông thôn mới tại vùng sâu, vùng xa.
Bộ trưởng Đỗ Đức Duy tin tưởng rằng với định hướng đúng đắn, ngành lâm nghiệp sẽ sớm đạt mức tăng trưởng hai con số trong vài năm tới. Phát triển bền vững không chỉ là mục tiêu mà còn là con đường tất yếu. Từ việc nâng cao hàm lượng công nghệ chế biến, mở rộng giá trị kinh tế dưới tán rừng, đến phát triển tín chỉ carbon, ngành lâm nghiệp đang được định vị lại để trở thành động lực kinh tế quan trọng, đồng thời bảo vệ môi trường sống cho thế hệ tương lai./.