Ngành gỗ Việt Nam chủ động với nguồn cung nguyên liệu chú trọng yếu tố xanh
Một trong những giải pháp then chốt mà ngành gỗ Việt Nam đang tập trung thực hiện là tăng cường tính chủ động với nguồn cung nguyên liệu. Thay vì phụ thuộc lớn vào nguồn gỗ nhập khẩu, các doanh nghiệp đang đẩy mạnh việc phát triển vùng nguyên liệu gỗ rừng trồng trong nước, đặc biệt là các loại gỗ có chứng chỉ quản lý rừng bền vững (FSC).
Theo đó, tính đến cuối năm 2024, diện tích rừng trồng có chứng chỉ FSC đã đạt hơn 400.000ha và mục tiêu hướng tới của ngành là 1 triệu ha vào năm 2030. Điều này không chỉ giúp các doanh nghiệp giảm thiểu rủi ro liên quan đến nguồn gốc gỗ, đáp ứng các yêu cầu khắt khe của thị trường Mỹ và các thị trường khác, mà còn góp phần vào mục tiêu phát triển bền vững của ngành lâm nghiệp Việt Nam.
Theo đánh giá của Cục Lâm nghiệp (Bộ NN&MT), triển vọng xuất khẩu của ngành gỗ trong năm 2025 phụ thuộc vào nhiều yếu tố, bao gồm sự phục hồi kinh tế toàn cầu, nhu cầu tiêu dùng tại các thị trường lớn, chính sách thương mại và năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp trong ngành. Các thị trường xuất khẩu chính mang lại triển vọng xuất khẩu cho ngành gỗ, trong đó, dẫn đầu là thị trường Mỹ, nhưng áp lực cạnh tranh mạnh từ các nhà cung cấp khác như Trung Quốc, Malaysia, Indonesia, điều này yêu cầu doanh nghiệp Việt Nam chú trọng phát triển sản phẩm có giá trị gia tăng.
Tiếp theo là thị trường EU, Hiệp định EVFTA (Hiệp định thương mại tự do Việt Nam - EU) tiếp tục mang lại lợi thế thuế quan, mở rộng cơ hội cho gỗ và sản phẩm chế biến. Tại thị trường Trung Quốc, nhu cầu tăng cao do sự phát triển đô thị hóa và xây dựng. Tuy nhiên, các doanh nghiệp sẽ phải đáp ứng được yêu cầu khắt khe hơn về nguồn gốc gỗ hợp pháp.
Theo Cục Lâm nghiệp thông tin, trong Đề án Phát triển ngành công nghiệp chế biến gỗ bền vững, hiệu quả giai đoạn 2021 - 2030, Việt Nam đặt mục tiêu giá trị xuất khẩu gỗ và lâm sản đạt 20 tỷ USD vào năm 2025. Đồng thời, trên 80% cơ sở chế biến, bảo quản gỗ đạt trình độ và năng lực công nghệ sản xuất tiên tiến; 100% gỗ, sản phẩm gỗ xuất khẩu và tiêu dùng trong nước được sử dụng từ nguồn nguyên liệu gỗ hợp pháp, gỗ có chứng chỉ quản lý rừng bền vững.
Nhận định về tình hình những năm tới, ông Trần Quang Bảo, Cục trưởng Cục Lâm nghiệp cho rằng, yếu tố xanh sẽ là một trong những tác động lớn đến xu hướng xuất khẩu gỗ của Việt Nam trong dài hạn, khi mà nhiều quy định của các thị trường đang được triển khai, thực thi như quy định chống phá rừng (EUDR) hay Cơ chế điều chỉnh biên giới carbon (CBAM) của châu Âu.
Bên cạnh đó, nhiều doanh nghiệp đã mạnh dạn đầu tư vào công nghệ chế biến sâu, nâng cao giá trị gia tăng cho sản phẩm gỗ. Thay vì xuất khẩu các sản phẩm thô hoặc sơ chế, các công ty đang tập trung vào sản xuất đồ nội thất, ván sàn, gỗ ghép thanh và các sản phẩm có thiết kế tinh xảo, đáp ứng thị hiếu ngày càng cao của người tiêu dùng Mỹ. Điều này không chỉ giúp tăng doanh thu mà còn giảm thiểu tác động của thuế quan tính trên giá trị sản phẩm.
Nhận thức rõ sự phụ thuộc vào một thị trường duy nhất có thể mang lại rủi ro lớn, ngành gỗ Việt Nam đang tích cực mở rộng và đa dạng hóa thị trường xuất khẩu. Bên cạnh Hoa Kỳ, các doanh nghiệp đang đẩy mạnh xúc tiến thương mại sang các thị trường tiềm năng khác như Liên minh châu Âu (EU), Nhật Bản, Hàn Quốc, Canada, Australia và các nước ASEAN.
Hơn nữa, Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) và Hiệp định Thương mại Tự do Việt Nam - EU (EVFTA) đang mở ra những cơ hội lớn cho ngành gỗ Việt Nam tiếp cận các thị trường này với thuế suất ưu đãi. Các doanh nghiệp đang nỗ lực nâng cao chất lượng sản phẩm, đáp ứng các tiêu chuẩn kỹ thuật và quy định về môi trường của từng thị trường để tận dụng tối đa lợi thế từ các hiệp định thương mại.
Ngành gỗ Việt Nam thể hiện khả năng thích ứng mạnh mẽ ứng phó kịp thời với chính sách thuế
Tiến sĩ Huỳnh Thế Du, giảng viên quản lý chương trình, chính sách công và môi trường tại Đại học Fulbright Việt Nam, cho biết: Trong bối cảnh chính sách thương mại của Mỹ có nhiều biến động, ngành gỗ Việt Nam vừa đối diện với thách thức, vừa có những cơ hội nhất định. Theo ông Du, việc Mỹ tìm kiếm nguồn cung thay thế Trung Quốc trong bối cảnh lạm phát và đứt gãy chuỗi cung ứng toàn cầu là một lợi thế cho Việt Nam. Tuy nhiên, cán cân thương mại xuất siêu của ngành gỗ Việt Nam sang Mỹ (gần 9 tỷ USD năm 2024) có thể tạo ra những rủi ro về chính sách trong tương lai.
TS. Huỳnh Thế Du khuyến nghị: “Chúng ta có thể nghĩ cách để đầu tư vào Mỹ. Đương nhiên muốn làm điều này chúng ta cần phải tìm hiểu chính sách của Mỹ rất kỹ. Chúng ta làm sao tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư của Mỹ, các doanh nghiệp của Việt Nam là chúng ta tìm cách hợp tác với doanh nghiệp Mỹ…”.
Theo ông Nguyễn Ngọc Thanh, Phó Chủ tịch Hiệp hội Gỗ và Lâm sản Bình Định: Việt Nam vẫn là một thị trường quan trọng đối với Mỹ. Nếu các doanh nghiệp Việt Nam đáp ứng được các yêu cầu của Mỹ về nguồn gốc và tính hợp pháp của gỗ, thì khả năng bị áp đặt các biện pháp hạn chế thương mại là không cao. Tuy nhiên, ông cảnh báo về nguy cơ gian lận thương mại thông qua việc các nước thứ ba lợi dụng Việt Nam để lẩn tránh thuế.
Ông Nguyễn Ngọc Thanh nhấn mạnh: “Doanh nghiệp bây giờ chúng ta cần phải có nội lực, nếu như nội lực chúng ta không đủ mạnh thì chúng ta không thể bước qua được những vấn đề sắp tới, yếu tố ngoại lực thì cần phải có sự hỗ trợ của các bộ, ngành, đặc biệt là Bộ Công thương...”.
Việc ngày càng nhiều doanh nghiệp gỗ đạt chứng chỉ FSC-CoC (chứng nhận nguồn gốc gỗ bền vững) đã giúp giảm thiểu rủi ro từ các quy định khắt khe của Mỹ và EU, mở rộng cánh cửa xuất khẩu sang các thị trường khó tính. Ông Lê Thanh Pháp, Đại điện Hiệp hội gỗ Đồng Nai đề nghị các cơ quan chức năng cần tạo điều kiện hơn nữa về mặt cấp chứng nhận nguồn gốc xuất xứ, cũng như những cảnh báo về nguồn gốc gỗ nguyên liệu phục vụ cho các thị trường mục tiêu xuất khẩu. Có như vậy, các doanh nghiệp gỗ sẽ có được nhiều sự chuẩn bị tốt hơn, ứng phó kịp thời hơn với những thay đổi của chính sách thuế từ các nước nhập khẩu.
“Đề nghị là phải có những cách thức để giải quyết cho doanh nghiệp thủ tục xuất xứ, chứng minh nguồn gốc cho nhanh. Cục phòng vệ thương mại cũng nên có cảnh báo trước cho doanh nghiệp những rủi ro về nguồn gốc, nguyên liệu, liên quan đến vấn đề nguyên liệu nhập khẩu…”, ông Lê Thanh Pháp đề xuất.
Mặc dù vẫn còn nhiều thách thức phía trước, ngành gỗ Việt Nam đã và đang chứng minh được khả năng thích ứng mạnh mẽ. Sự chủ động trong nguồn cung nguyên liệu, đa dạng hóa thị trường, nâng cao năng lực cạnh tranh và tính minh bạch đang giúp ngành gỗ từng bước giảm thiểu tác động tiêu cực từ thuế quan của Mỹ và các biến động thương mại khác.
Với những nỗ lực của doanh nghiệp, sự hỗ trợ từ các hiệp hội và Chính phủ, ngành gỗ Việt Nam hoàn toàn có cơ sở để tiếp tục khẳng định vị thế là một trong những quốc gia xuất khẩu gỗ hàng đầu trên thế giới, không chỉ ở thị trường Mỹ mà còn vươn ra nhiều thị trường tiềm năng khác.
Ông Trần Quang Bảo, Cục trưởng Cục Lâm nghiệp cho biết thêm, bên cạnh việc xây dựng các khu chế biến công nghệ cao, mở rộng thị phần xuất khẩu, chủ động xúc tiến thương mại gỗ và sản phẩm gỗ tại các thị trường chính, phát triển bán hàng qua các kênh thương mại điện tử, ngành gỗ cần quan tâm hơn và đầu tư vào vùng nguyên liệu. Cụ thể, là phát triển nhiều hơn những rừng trồng gỗ lớn, rừng được quản lý bền vững và cấp chứng chỉ (FSC hoặc PEFC). "Tiêu chuẩn rừng trồng của Việt Nam càng cao, gỗ và sản phẩm chế biến từ gỗ càng dễ thâm nhập vào những thị trường khó tính", ông Bảo nhấn mạnh.
Hiện Cục Lâm nghiệp đã phối hợp các đơn vị thực hiện thí điểm việc cấp mã số vùng trồng rừng tại một số tỉnh phía Bắc, tiến tới mở rộng ra toàn quốc. Nhiệm vụ của mã số này là phát triển chuỗi cung gỗ hợp pháp, đảm bảo truy xuất nguồn gốc gỗ thích ứng với các yêu cầu quốc tế, cũng như phát triển phương pháp đo đếm, báo cáo và thẩm định (MRV) để xác định khả năng hấp thụ, lưu trữ carbon rừng trồng./.
Năm 2024, trị giá xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ ước đạt 16,25 tỷ USD, tăng 20,3% so với năm 2023. Trong đó, trị giá xuất khẩu sản phẩm gỗ ước đạt 11,2 tỷ USD, tăng 21,9% so với năm 2023.
Nếu so sánh với con số kỷ lục cũ được xác lập năm 2022 (15,8 tỷ USD), kim ngạch xuất khẩu gỗ năm 2024 đã vượt khoảng 500 triệu USD. Cùng với gỗ, lâm sản ngoài gỗ cũng đóng góp 1,04 tỷ USD trong năm 2024, giúp tổng giá trị xuất khẩu đạt khoảng 17,3 tỷ USD.
Kết quả đạt được là nhờ sự nỗ lực của các doanh nghiệp trong ngành gỗ, chủ động tìm kiếm thị trường, tham gia hội chợ triển lãm và chuyển đổi từ gia công xuất khẩu sang thiết kế các mẫu mã mới, nâng cao chất lượng sản phẩm. Cùng với đó, tiêu dùng tại các thị trường lớn như Hoa Kỳ và châu Âu phục hồi, đặc biệt là tại thị trường Hoa Kỳ, đã tạo cơ hội cho ngành gỗ tăng tốc xuất khẩu. Bên cạnh đó, ngành gỗ Việt Nam đã thâm nhập sâu hơn vào các thị trường quan trọng và mở rộng hiện diện tại các thị trường mới nổi như UAE, Ấn Độ.
Mặc dù, đạt được kết quả khả quan, nhưng ngành gỗ vẫn đối mặt với nhiều thách thức như yêu cầu kiểm soát nguồn gốc gỗ hợp pháp từ các thị trường xuất khẩu chính, nguy cơ gian lận thương mại, áp lực cạnh tranh và biến động kinh tế toàn cầu.
Những thách thức thị trường mà ngành gỗ phải đối mặt như: Các thị trường lớn như EU, Hoa Kỳ… ngày càng thắt chặt yêu cầu về xuất xứ gỗ, đòi hỏi các doanh nghiệp Việt Nam nâng cao kiểm soát chuỗi cung ứng; các thị trường như Indonesia, Thái Lan và Malaysia đều là các đối thủ cạnh tranh mạnh trong khu vực; nguy cơ suy giảm kinh tế tại các thị trường lớn có thể ảnh hưởng đến nhu cầu tiêu thụ. Vì vậy, ngành gỗ cần chuẩn bị kỹ để vượt qua thách thức và đáp ứng yêu cầu ngày càng cao từ thị trường quốc tế.
Ông Ngô Sỹ Hoài, Phó Chủ tịch kiêm Tổng thư ký Hiệp hội Gỗ và lâm sản Việt Nam (VIFOREST) cho biết hiện Việt Nam đã xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ đến trên 160 quốc gia và vùng lãnh thổ. Với đà tăng trưởng hiện tại và sự nỗ lực của các doanh nghiệp cùng cơ quan quản lý, ngành gỗ Việt Nam được kỳ vọng sẽ tiếp tục đạt được những thành tựu mới, củng cố vị thế trên thị trường quốc tế.