Một trong những điểm nóng khi bàn về Dự thảo Luật Thương mại điện tử là khái niệm “mạng xã hội có hoạt động thương mại điện tử” và “nền tảng thương mại điện tử trung gian” vẫn còn nhiều chồng chéo. Nhiều chuyên gia và hiệp hội doanh nghiệp cho rằng sự thiếu rạch ròi này có thể dẫn đến tình trạng áp dụng luật thiếu hợp lý, gây khó cho cả cơ quan quản lý lẫn doanh nghiệp.
Trong văn bản góp ý gửi cơ quan soạn thảo, Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) đã chỉ ra rằng, bản Dự thảo hiện nay mới chỉ phù hợp với mô hình thương mại điện tử B2C, trong khi thực tế thị trường đang tồn tại nhiều mô hình khác như B2B, C2C, các mạng xã hội tích hợp yếu tố mua bán hoặc nền tảng đa dịch vụ. Nếu quy định chỉ tập trung vào một dạng thức, luật sẽ khó theo kịp sự phát triển đa dạng và nhanh chóng của thương mại điện tử.
Theo VCCI, vấn đề lớn nhất nằm ở định nghĩa và nghĩa vụ áp dụng cho “mạng xã hội có hoạt động thương mại điện tử”. Khoản 5 và 6 Điều 3 trong Dự thảo được cho là chưa làm rõ được ranh giới giữa mạng xã hội và nền tảng thương mại điện tử trung gian. Với định nghĩa hiện nay, rất dễ xảy ra tình huống một mạng xã hội, vốn chỉ đóng vai trò kết nối và chia sẻ thông tin, lại bị gán cùng trách nhiệm như một sàn thương mại điện tử chuyên biệt.
Để tránh sự nhập nhằng, VCCI kiến nghị cần phân định rành mạch hai khái niệm. Nền tảng trung gian, theo đó, phải là nơi trực tiếp hỗ trợ các bước mua bán như đặt hàng, quản lý thanh toán, theo dõi đơn hàng, đồng thời nhận thù lao hoặc hoa hồng từ giao dịch. Trong khi đó, mạng xã hội chỉ nên được xem là môi trường cho phép kết nối giữa người mua và người bán, nơi các hoạt động chủ yếu xoay quanh tương tác, chia sẻ thông tin, kèm theo một số tính năng hỗ trợ như gian hàng, tiếp thị liên kết hay phát trực tiếp bán hàng.
Đi xa hơn, VCCI cho rằng việc áp dụng toàn bộ nghĩa vụ của nền tảng trung gian cho mạng xã hội là không thỏa đáng. Ví dụ, quy định về xác thực danh tính điện tử là không cần thiết khi hầu hết tài khoản mạng xã hội đã gắn với số điện thoại. Hay yêu cầu lưu trữ hợp đồng, xác nhận giao dịch cũng chỉ phù hợp nếu việc mua bán thực sự diễn ra ngay trên nền tảng. Tương tự, nghĩa vụ liên quan đến đặt hàng trực tuyến chỉ nên áp dụng cho mạng xã hội có tích hợp chức năng này.
Với quan điểm này, VCCI đề xuất một lộ trình nghĩa vụ linh hoạt hơn: trách nhiệm của mạng xã hội cần được thiết kế dựa trên những tính năng thực tế mà họ cung cấp. Cụ thể, các nền tảng này cần bảo đảm tách biệt rõ ràng giữa tài khoản cá nhân và tài khoản bán hàng, hiển thị dấu hiệu nhận diện, phân loại và bố trí nội dung thương mại điện tử vào các khu vực riêng biệt. Đồng thời, mạng xã hội phải gỡ bỏ nội dung vi phạm theo yêu cầu của cơ quan chức năng, phối hợp trong việc giám sát hàng hóa, dịch vụ bất hợp pháp, thiết lập cơ chế báo cáo và xác thực thông tin cơ bản của người bán.
Trường hợp mạng xã hội trực tiếp bước vào những khâu như đặt hàng, xử lý thanh toán, triển khai đơn hàng hoặc thu phí từ giao dịch, thì lúc đó họ mới phải thực hiện toàn bộ nghĩa vụ như một sàn thương mại điện tử trung gian theo luật định.
Chung quan điểm này, bà Nguyễn Việt Hà, đại diện Hiệp hội Thương mại Hoa Kỳ tại Hà Nội (AmCham Hanoi), cũng cho rằng dự thảo đã có nhiều bước tiến tích cực, nhưng các định nghĩa vẫn cần tính khái quát cao hơn để tránh lạc hậu khi xuất hiện các mô hình mới. Bà nhấn mạnh, nếu mạng xã hội chỉ tham gia vào một mắt xích nhỏ trong chuỗi thương mại điện tử, thì không thể bắt buộc họ gánh toàn bộ nghĩa vụ như một sàn thương mại điện tử hoàn chỉnh.
Những ý kiến này cho thấy, việc phân định vai trò giữa các loại hình nền tảng không chỉ mang ý nghĩa pháp lý, mà còn là yếu tố then chốt để bảo đảm tính khả thi khi luật đi vào thực tiễn. Nếu không có sự phân biệt rõ ràng, rất dễ xảy ra tình trạng “quá tải nghĩa vụ” đối với mạng xã hội, trong khi lại chưa đủ công cụ kiểm soát hiệu quả hoạt động thương mại điện tử ngày càng phức tạp.