Bắc Trung Bộ thúc đẩy chuyển đổi giống chè, hướng tới phát triển bền vững đến 2040

Chè là một trong những cây trồng sở hữu tiềm lực lớn của vùng Bắc Trung bộ. Tuy nhiên, do chậm đổi mới giống chè, kỹ thuật canh tác và quy trình chế biến tạo thành những “điểm nghẽn”. Việc chuyển đổi cơ cấu giống chè là một việc làm cấp thiết để chè phát triển bền vững, nâng cao giá trị.
491807439-1072170854957777-4769424917786238395-n-1757161357.jpg
Vùng chè Bắc Trung bộ chủ yếu tập trung tại Nghệ An và Hà Tĩnh với diện tích khoảng gần 10 ngàn hecta, năng suất bình quân khoảng 10 tấn/ha.

“Điểm nghẽn” vùng chè Bắc Trung bộ

Vùng chè Bắc Trung bộ chủ yếu tập trung tại Nghệ An và Hà Tĩnh với diện tích khoảng gần 10 ngàn hecta, năng suất bình quân khoảng 10 tấn/ha. Đây được xem là vùng sở hữu tiềm lực lớn để phát triển ngành hàng này.

Tính đến năm 2024, diện tích chè toàn tỉnh Hà Tĩnh đạt 1.213ha, trong đó diện tích kinh doanh trên 1.132 ha; năng suất chè bình quân đạt gần 123 tạ/ha; sản lượng đạt gần 14.000 tấn, các giống chè chủ yếu được trồng là giống PH1, LDP1, LDP2. Năm 2017, toàn bộ diện tích chè của Hà Tĩnh được cấp chứng nhận đạt tiêu chuẩn VietGAP.

Những năm qua, chè là một trong những cây trồng giải quyết việc làm cho lực lượng lớn và đem lại thu nhập khá cho người dân Hà Tĩnh. Với mỗi ha chè, nông dân có thể thu về bình quân 70 triệu đồng/năm; nhưng nếu được đầu tư thỏa đáng, chăm sóc tốt thì có hộ có thể đạt 150 triệu đồng/ha/năm. Không chỉ góp phần cải thiện chất lượng kinh tế, bộ mặt kinh tế nông thôn, cây chè còn giúp phủ xanh đất trống đồi trọc, bảo vệ môi trường.

24687735-12d0-4a0a-b96d-311bc0b60291-1757161357.jfif
PGS.TS Lê Quốc Doanh-nguyên Thứ trưởng Bộ NN-PTNT, Chủ tịch Hội Làm vườn Việt Nam đánh giá về giá trị và "điểm nghẽn" của cây chè vùng Bắc Trung bộ. 

Toàn tỉnh Nghệ An hiện có khoảng 8.700ha diện tích trồng và trong quy hoạch trồng chè. Tính đến năm 2030 sẽ mở rộng lên 15.000 ha, khai thác tối đa thế mạnh của loại cây trồng này.

“Tuy nhiên, ngành hàng chè Nghệ An vẫn gặp khó khăn ở khâu chế biến và mở rộng thị trường trong nước cũng như xuất khẩu. Đặc biệt, tỉnh hiện còn thiếu những doanh nghiệp đầu tư vào lĩnh vực này”, ông Nguyễn Văn Đệ- Phó Chủ tịch UBND tỉnh Nghệ An chia sẻ, đồng thời bày tỏ mong muốn mời gọi các doanh nghiệp đến hợp tác, phát triển các ngành hàng này.

“Giá trị từ chè búp tươi có thể đạt 400 triệu đồng/ha, nếu chế biến thành chè đen có thể tăng gấp đôi. Nhưng thực tế, thu nhập trung bình của Bắc Trung bộ chỉ khoảng 50-60 triệu đồng/ha - mức quá thấp”, PGS.TS Lê Quốc Doanh-nguyên Thứ trưởng Bộ NN-PTNT, Chủ tịch Hội Làm vườn Việt Nam đánh giá.

Nguyên nhân được chỉ ra là do chậm đổi mới giống, kỹ thuật canh tác và quy trình chế biến. Hiện một số tỉnh đã bắt đầu tái cơ cấu lại giống, chọn hướng đi mới phù hợp với thị trường trong nước và xuất khẩu. Ông Doanh gợi ý các tỉnh nên tổ chức đoàn tham quan, học hỏi mô hình canh tác, chế biến chè tại Thái Nguyên, địa phương đang làm tốt việc nâng cao giá trị cây chè, từ trồng trọt tới thương hiệu sản phẩm.

Từ phân tích trên, PGS.TS Lê Quốc Doanh bày tỏ, để khai mở tiềm năng cây chè vùng Bắc Trung bộ cần bắt đầu từ việc thay đổi tư duy canh tác và đầu tư bài bản, có chiến lược dài hạn.

Chuyển đổi cơ cấu giống chè

Nhằm nâng cao chất lượng, xây dựng nhãn hiệu sản phẩm để khai thác thị trường trong và ngoài nước, gia tăng giá trị và thu nhập từ sản xuất chè cho bà con nông dân, mở ra hướng đi mới cho phát triển cây chè trong tương lai, bên cạnh lựa chọn các giống chè đem lại năng suất, chất lượng cao thì việc ứng dụng tiến bộ kỹ thuật trong sản xuất chè theo tiêu chuẩn hữu cơ là rất cần thiết và tất yếu.

478452570-4267214950232801-458660922005249895-n-1757161358.jpg
Thay đổi cơ cấu giống chè mới nhằm mang lại giá trị bền vững cho cây chè vùng Bắc Trung bộ.

Các giống chè chủ lực tại 2 tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh là LDP2, PH1 và LDP1; 3 giống PH8, CNS-831 và TRI 5.0 vừa có năng suất cao, vừa có khả năng chế biến được sản phẩm chè xanh, chè đen đạt chất lượng tốt, khả năng chịu hạn, nóng tố.

Với 31 giống chè chọn tạo, Viện Khoa học kỹ thuật Nông Lâm nghiệp miền núi phía Bắc đề xuất cơ cấu chuyển đổi nhóm giống chế biến chè xanh cao cấp như Hương Bắc Sơn, VN15, Kim Tuyên với diện tích 10-15%; nhóm giống cho chế biến chè xanh chất lượng tốt như LCT1, PH8, CNS-831, TRI 5.0, với cơ cấu diện tích 30-35%; và nhóm giống cho chế biến chè đen như TRI 5.0, PH8, CNS-831 và diện tích chè Shan của tỉnh Nghệ An.

d1cc7c81-ce2b-488a-8bde-430d0146b4ea-1757161357.jfif
TS. Nguyễn Văn Toàn, nguyên Viện trưởng Viện KHKT Nông Lâm nghiệp miền núi phía Bắc nhấn mạnh về cơ cấu chuyển đổi giống chè mới vùng Bắc Trung bộ.

TS. Nguyễn Văn Toàn, nguyên Viện trưởng Viện KHKT Nông Lâm nghiệp miền núi phía Bắc, nhấn mạnh. Các giống chè mới phát triển ở vùng Bắc Trung bộ được trồng, chăm sóc theo quy trình hiện hành, song cần phải thực hiện một số kỹ thuật đặc thù: trồng hệ thống cây che bóng 3 tầng (tầng cao, tầng trung và tầng thấp); cây chè trồng mới phải có cây che bóng tạm thời. Vườn chè cần hệ thống tưới nước, thiết lập ngay từ khi trồng mới nhất là diện tích trồng nhóm giống chế biến sản phẩm chè cao cấp và ủ gốc thường xuyên để giữ ẩm.

“Những kỹ thuật canh tác đặc thù và quy trình chế biến nghiêm ngặt trên là yêu cầu bắt buộc đối với việc phát triển các giống chè cao cấp mới”, TS Nguyễn Văn Toàn chia sẻ.

Về phát triển thị trường, TS. Nguyễn Văn Toàn nhấn mạnh tiềm năng phát triển sản phẩm chè xanh cao cấp để đáp ứng nhu cầu nội địa và xuất khẩu. Thông qua việc sử dụng nguyên liệu từ các giống chè LDP1 và chè Shan hiện có, vùng Bắc Trung bộ có thể tối ưu hóa nguồn nguyên liệu và mở rộng thị trường tiêu thụ cho sản phẩm, nâng cao giá trị cây chè./.

Đăng ký đặt báo