Quản lý khai thác đất hiếm: An toàn môi trường đặt lên hàng đầu

Đại biểu Quốc hội cảnh báo khai thác đất hiếm tiềm ẩn phóng xạ tự nhiên và chất thải độc hại. Luật sửa đổi được đề xuất siết chặt kiểm soát công nghệ, giám sát môi trường và thúc đẩy đầu tư công nghệ bền vững.
quan-ly-khai-thac-dat-hiem-an-toan-moi-truong-dat-len-hang-dau-1764564374.jpg
Ảnh minh hoạ.

Sáng 1/12, tại phiên thảo luận dự án Luật sửa đổi, bổ sung Luật Địa chất và khoáng sản, nhiều đại biểu Quốc hội đã bày tỏ lo ngại về những rủi ro tiềm ẩn từ khai thác đất hiếm, đặc biệt là nguy cơ phóng xạ tự nhiên và chất thải độc hại nếu không được kiểm soát nghiêm ngặt.

Đại biểu Trịnh Thị Tú Anh (Đoàn Lâm Đồng) nhấn mạnh, đất hiếm là tài nguyên chiến lược, đóng vai trò quan trọng trong các ngành công nghiệp then chốt như bán dẫn, xe điện, quốc phòng. Do vậy, việc quản lý khai thác cần đặt an toàn môi trường lên hàng đầu và được điều phối thống nhất ở cấp quốc gia. Theo bà, quá trình tuyển tách và chế biến đất hiếm luôn phát sinh phóng xạ tự nhiên, kim loại nặng và dung dịch axit khó xử lý. Nhiều quốc gia khai thác ồ ạt nhưng thiếu kiểm soát đã để lại vùng ô nhiễm lâu dài với chi phí phục hồi môi trường cao hơn nhiều lần giá trị kinh tế thu được. "Đây là bài học Việt Nam không thể lặp lại", bà cảnh báo.

202512010906250365-z7279648057-7769-5664-1764557486-1764576122.webp
Đại biểu Trịnh Thị Tú Anh (chuyên trách Đoàn Lâm Đồng) phát biểu.

Từ kinh nghiệm quốc tế, đại biểu Tú Anh đề xuất áp dụng công nghệ tuyển tách khép kín, mô hình hóa sự phát tán phóng xạ, quan trắc môi trường liên tục và xây dựng phương án xử lý bùn thải theo tiêu chuẩn quốc tế. Bà cũng nhấn mạnh vai trò giám sát độc lập của Cơ quan An toàn Bức xạ và Hạt nhân quốc gia trên toàn bộ quy trình, từ đánh giá công nghệ, rủi ro đến kiểm tra hiện trường và xử lý chất thải.

Đại biểu Tú Anh còn lưu ý, chu kỳ dự án đất hiếm dài và đòi hỏi thử nghiệm công nghệ, đánh giá môi trường kỹ lưỡng. Nếu thời hạn ưu tiên cho nhà đầu tư quá ngắn, doanh nghiệp có thể vội vàng triển khai dự án, dẫn đến khai thác thô thay vì hình thành dây chuyền chế biến sâu. Luật cần cơ chế linh hoạt hơn để thu hút nhà đầu tư thực sự có năng lực công nghệ.

Cùng quan điểm, đại biểu Đàng Thị Mỹ Hương (Phó đoàn Khánh Hòa) cho rằng dự thảo luật hiện chưa có cơ chế đảm bảo an toàn môi trường và xử lý chất thải phóng xạ, hóa học. Bà đề nghị đánh giá rủi ro môi trường độc lập bởi bên thứ ba, yêu cầu doanh nghiệp ký quỹ cao hơn mỏ khoáng sản thông thường và công bố dữ liệu môi trường định kỳ, nhằm bảo đảm minh bạch và phát triển bền vững.

Trong khi đó, đại biểu Nguyễn Tâm Hùng (TP HCM) nhấn mạnh, đất hiếm có giá trị chiến lược đặc biệt nên cần quản lý chặt chẽ, nhưng cũng phải cân nhắc hài hòa với các khoáng sản chiến lược khác. Ông dẫn ví dụ bauxite ở Tây Nguyên, nơi việc quy hoạch dài hạn từng ảnh hưởng đến đời sống người dân, hạn chế phát triển hạ tầng và gây lãng phí nguồn lực. Theo ông, cần rà soát ranh giới quy hoạch, chỉ giữ khu vực có trữ lượng chắc chắn và khả năng khai thác trung, dài hạn.

PGS Hoàng Anh Sơn, Viện trưởng Viện Khoa học Vật liệu, nhận định Việt Nam sở hữu trữ lượng đất hiếm lớn, khoảng 22 triệu tấn, chỉ đứng sau Trung Quốc. Tuy nhiên, hiện nước ta chưa có nhà máy chế biến tinh quặng đạt tiêu chuẩn xuất khẩu do thiếu công nghệ tạo sản phẩm có hàm lượng đạt yêu cầu, cũng như công nghệ tách chiết nguyên tố riêng lẻ. Thực trạng này cho thấy, quản lý chặt chẽ phải đi đôi với chiến lược đầu tư công nghệ dài hạn để phát triển bền vững ngành đất hiếm.

Dự án luật sửa đổi, bổ sung Luật Địa chất và khoáng sản dự kiến sẽ được Quốc hội biểu quyết thông qua vào ngày 11/12.

Đăng ký đặt báo