Kinh tế biển bứt tốc, yêu cầu mới cho quản lý và bảo vệ tài nguyên quốc gia

Kinh tế biển và ven biển Việt Nam đang phát triển nhanh, đóng góp quan trọng cho kinh tế-xã hội, nhưng vẫn tồn tại nhiều thách thức về hạ tầng, pháp lý và bảo vệ môi trường, cần những cơ chế đồng bộ để phát triển bền vững.
kinh-te-bien-1763465189.png
Kinh tế biển Việt Nam: Tăng trưởng mạnh nhưng cần giải pháp đồng bộ

Trong bức tranh phát triển kinh tế - xã hội những năm gần đây, khu vực biển và ven biển tiếp tục khẳng định vai trò động lực khi duy trì mức tăng trưởng cao, tạo nguồn thu lớn và mở rộng không gian phát triển cho nhiều ngành then chốt. Từ dịch vụ hàng hải, logistics, cảng biển đến đóng tàu, du lịch biển, khai thác dầu khí hay nuôi biển công nghệ cao, hàng loạt lĩnh vực có bước tiến vượt bậc. Đặc biệt, năng lượng tái tạo và các ngành kinh tế biển mới đang trở thành điểm sáng, góp phần thúc đẩy mô hình kinh tế xanh và kinh tế tuần hoàn.

Trong bối cảnh đó, ngày 18/11, Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Nguyễn Thị Phương Hoa đã có buổi làm việc với Cục Biển và Hải đảo Việt Nam nhằm rà soát tiến độ thực hiện Nghị quyết 26/NQ-CP - kế hoạch triển khai Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn 2045. Đây là chiến lược được xây dựng dựa trên Nghị quyết 36-NQ/TW năm 2018, đặt mục tiêu đưa Việt Nam trở thành quốc gia mạnh về biển.

Tại cuộc họp, Thứ trưởng nhấn mạnh yêu cầu Cục Biển và Hải đảo phải rà soát toàn diện, báo cáo đầy đủ tình hình thực hiện các nhiệm vụ đã được giao, đồng thời xác định rõ phương hướng triển khai thời gian tới. Bà đặc biệt lưu ý tới việc đảm bảo sinh kế và đời sống người dân ven biển – nhóm chịu tác động trực tiếp từ các dự án phát triển kinh tế biển quy mô lớn.

Cùng với đó, Cục được giao nhiệm vụ nghiên cứu tổng kết việc thực thi Nghị quyết 36-NQ/TW, làm cơ sở xây dựng Luật Môi trường biển và hải đảo. Theo yêu cầu của lãnh đạo bộ, các phân tích phải tính đến lợi thế từng địa phương ven biển, lồng ghép kinh nghiệm quản lý biển quốc tế và tiếp cận các mô hình quản trị hiện đại, song vẫn bảo đảm phù hợp điều kiện thực tiễn Việt Nam.

Theo Nghị quyết 26/NQ-CP, 12 bộ và 28 địa phương ven biển (nay còn 21) được giao 51 nhiệm vụ, trong đó Bộ Nông nghiệp và Môi trường chủ trì 12 nhiệm vụ. Đến nay, phần lớn các dự án đã được triển khai hoặc lồng ghép vào các chương trình hiện hành. Cục Biển và Hải đảo cho biết công tác quản trị biển và đại dương đã có chuyển biến rõ rệt, nổi bật nhất là lần đầu tiên quy hoạch không gian biển quốc gia được phê duyệt. Hệ thống pháp luật về lấn biển, giao khu vực biển ngày càng hoàn thiện; các bộ chỉ tiêu thống kê và đánh giá quốc gia về biển mạnh cũng đã được ban hành.

Phát triển kinh tế biển đã kéo theo sự nâng lên rõ rệt của đời sống cư dân ven biển. Người dân tiếp cận tốt hơn với điện, nước sạch, giao thông và các dịch vụ xã hội cơ bản. Nhiều hệ sinh thái biển, ven biển và hải đảo được phục hồi; bản đồ địa hình đáy biển được hoàn thành ở phần lớn diện tích vùng biển.

Trong lĩnh vực khoa học và công nghệ biển, hợp tác quốc tế với Nhật Bản, Hàn Quốc, Ấn Độ, Canada và nhiều tổ chức lớn tiếp tục mở rộng. Các nghiên cứu về hệ sinh thái, địa chất, biến đổi khí hậu và thiên tai ngày càng cung cấp luận cứ khoa học đầy đủ hơn cho công tác quản lý. Đến nay cả nước có 12 khu bảo tồn biển với diện tích hơn 206.000 ha, trong đó phần lớn là diện tích mặt biển; bản đồ hải lý tỷ lệ 1:200.000 đã hoàn thành cho 82% vùng biển.

Dù đạt nhiều kết quả, báo cáo cũng chỉ ra hàng loạt tồn tại. Cơ chế thu hút nguồn lực tư nhân cho các dự án biển chưa đủ mạnh; nhiều quy định pháp luật còn chồng chéo; logistics và kinh tế cảng biển đổi mới chậm; ô nhiễm tại các khu công nghiệp ven biển vẫn tiềm ẩn. Hoạt động lấn biển thiếu đánh giá tổng thể, gây lo ngại về nguy cơ tác động đến hệ sinh thái và ổn định bờ biển. Công tác quan trắc môi trường biển còn thưa mỏng, điều tra cơ bản, nhất là vùng biển sâu gặp khó do thiếu thiết bị và phương tiện chuyên dụng.

Đăng ký đặt báo