Trong bối cảnh Chính phủ đang thúc đẩy mạnh mẽ mục tiêu kinh tế xanh và kinh tế tuần hoàn, vấn đề quản lý, thu gom và tái chế chất thải ngày càng trở thành mối quan tâm lớn. Tuy nhiên, một lực lượng âm thầm đóng vai trò quan trọng trong chuỗi này, những cá nhân và hộ gia đình thu gom ve chai, đồng nát lại chưa nhận được sự quan tâm đúng mức cả về chính sách lẫn an sinh xã hội. Họ là những người trực tiếp thu nhặt, phân loại rác thải, nhưng thu nhập chỉ đủ trang trải cho cuộc sống tối thiểu, đồng thời phải đối mặt với sự kỳ thị xã hội và rào cản thủ tục thuế phức tạp.
Dự thảo sửa đổi, bổ sung Luật Quản lý thuế, Luật Thuế thu nhập cá nhân và Luật Thuế giá trị gia tăng do Bộ Tài chính đưa ra lấy ý kiến gần đây được đánh giá có nhiều điểm tiến bộ, phù hợp với thực tiễn. Song, một khoảng trống đáng chú ý là chưa có cơ chế hỗ trợ hoặc ưu tiên cho nhóm lao động yếu thế này, trong khi họ chính là mắt xích không thể thiếu trong công tác giảm thiểu ô nhiễm, tái chế và tái sử dụng chất thải.
Nhiều ý kiến đề xuất cần xem xét miễn thuế giá trị gia tăng 1% và thuế thu nhập cá nhân 0,5% cho cá nhân, hộ gia đình thu gom chất thải sau tiêu dùng. Một lựa chọn khác là cho phép các tổ chức thu gom, sơ chế, tái chế nộp thay nghĩa vụ thuế cho nhóm này. Giải pháp như vậy không chỉ mang tính nhân văn, mà còn giúp khuyến khích hoạt động thu gom, phân loại, đồng thời tạo sự minh bạch trong chuỗi giá trị chất thải.
Thực tế, suốt hơn 40 năm qua, đội ngũ thu gom phế liệu đã đóng góp đáng kể cho công tác bảo vệ môi trường nhưng chưa hề được công nhận tương xứng. Họ chủ yếu là phụ nữ lớn tuổi, lao động trình độ thấp, sống rải rác ở khắp vùng miền và gần như không có sự bảo đảm về an sinh xã hội.
Dù mức doanh thu miễn thuế của cá nhân kinh doanh hiện đã được nâng lên 200 triệu đồng/năm, nhưng điều này chưa phù hợp với đặc thù ve chai, đồng nát. Bởi họ phải bỏ tiền mua rác thải từ các hộ gia đình, lợi nhuận thu về rất thấp, không đủ điều kiện để duy trì mô hình kinh doanh hay thực hiện các thủ tục kế toán - thuế.
Chính những rào cản này đã khiến lực lượng thu gom rác thải rơi vào tình trạng phi chính thức. Họ không dám đăng ký hộ kinh doanh, không thể xuất hóa đơn trực tiếp với mức thuế 1,5% do quy trình thủ tục phức tạp. Nhiều người còn e ngại ký vào bảng kê bán hàng vì sợ lộ thông tin cá nhân hoặc gặp rủi ro từ cơ quan quản lý. Điều đó không chỉ làm họ thiệt thòi mà còn gây khó khăn cho chính các doanh nghiệp tái chế trong nước.
Trên thực tế, nhiều doanh nghiệp tái chế không thể thu mua chất thải trong nước bởi thiếu chứng từ chứng minh nguồn gốc. Hệ quả là ngành nhựa Việt Nam mất không ít đơn hàng xuất khẩu, khi không đáp ứng được yêu cầu của các thị trường lớn về tỷ lệ hạt nhựa tái chế có nguồn gốc nội địa. Điều này cho thấy, nếu không tháo gỡ nút thắt về cơ chế thuế, chuỗi giá trị tái chế trong nước sẽ bị đứt gãy, làm lãng phí nguồn tài nguyên từ rác thải và cản trở mục tiêu phát triển bền vững.
Vì vậy, việc miễn hoặc giảm thuế cho cá nhân và hộ gia đình thu gom chất thải, hay để doanh nghiệp nộp thay, cần được xem như một bước đi thiết thực. Đây không chỉ là sự hỗ trợ về mặt xã hội, mà còn là đòn bẩy để hướng dòng chất thải chảy vào hệ thống tái chế chính quy, đảm bảo tiêu chuẩn môi trường. Khi đó, hoạt động thu gom, tái chế sẽ được chuyên nghiệp hóa, minh bạch hơn, góp phần thúc đẩy ngành công nghiệp tái chế phát triển, đồng thời hiện thực hóa mục tiêu kinh tế tuần hoàn mà Chính phủ đã đặt ra.