Chuyển đổi xanh trong nông nghiệp: Không thể chỉ dừng ở khẩu hiệu

Dù mục tiêu phát triển nông nghiệp xanh đã được xác định rõ trong chiến lược chuyển đổi xanh của TP.HCM mới, song thực tế triển khai vẫn còn nhiều khoảng trống. Việc ứng dụng công nghệ cao, năng lượng tái tạo hay mô hình tuần hoàn trong sản xuất nông nghiệp vẫn ở mức khiêm tốn, chủ yếu do hạn chế về quy mô, tài chính và chính sách khuyến khích.

Tại hội thảo “Bộ công cụ đánh giá chuyển đổi xanh cho TP.HCM mới” diễn ra ngày 15/7, các chuyên gia đã chỉ ra rằng để hướng tới mục tiêu giảm phát thải khí nhà kính và thích ứng với biến đổi khí hậu, việc đánh giá đúng năng lực chuyển đổi xanh của từng ngành là điều kiện tiên quyết. Đặc biệt, lĩnh vực nông nghiệp, với đặc thù phụ thuộc vào điều kiện tự nhiên và đa dạng mô hình sản xuất đòi hỏi một cách tiếp cận riêng biệt, phù hợp và linh hoạt.

chuyen-doi-xanh-trong-nong-nghiep-1752744505.png
Đổi mới nông nghiệp theo hướng thông minh và carbon thấp. (Ảnh minh hoạ)

TS. Tô Thị Thùy Trang, thành viên nhóm nghiên cứu, cho biết trong khu vực TP.HCM mới, nông nghiệp tồn tại dưới nhiều hình thức như nông nghiệp đô thị, lâm nghiệp, thủy sản và nông nghiệp ven biển. Tuy nhiên, việc ứng dụng công nghệ cao, năng lượng tái tạo hay mô hình kinh tế tuần hoàn vẫn còn rất hạn chế. Nguyên nhân chủ yếu xuất phát từ quy mô sản xuất nhỏ lẻ, khó tiếp cận nguồn tài chính xanh và thiếu các chính sách khuyến khích cụ thể.

Trước thực trạng đó, bà Trang nhấn mạnh rằng trong giai đoạn 2025 - 2030, TP.HCM mới cần xác lập các tiêu chí phát triển nông nghiệp theo hướng “thông minh và carbon thấp”, đồng thời bảo đảm khả năng kiểm chứng bằng dữ liệu thực tế. Theo bà, chuyển đổi xanh không thể chỉ dừng lại ở các tuyên bố mang tính khẩu hiệu, mà cần đi kèm các chỉ số cụ thể nhằm xác định điểm xuất phát, mục tiêu cải thiện và trách nhiệm hành động.

Thực tế, TP.HCM đã bước đầu xây dựng một bộ khung đánh giá gồm 10 trụ cột, trong đó nông nghiệp là một yếu tố trọng yếu. Bộ công cụ này hướng đến việc đo lường năng lực xanh hóa trên nhiều phương diện: từ sử dụng tài nguyên, mức độ phát thải, đến hiệu quả chuỗi giá trị và khả năng thích ứng với khí hậu cực đoan. Tuy nhiên, bà Trang cũng lưu ý rằng công cụ chỉ mang tính kỹ thuật, việc triển khai thực chất còn phụ thuộc vào năng lực hành động tại địa phương và tinh thần chủ động của nông dân cũng như doanh nghiệp.

Ở góc độ học thuật, PGS.TS Phan Thị Thục Anh (Đại học VinUni) cho rằng bộ công cụ không nên bị xem là khuôn mẫu cứng nhắc. Quan trọng là cách mỗi địa phương vận dụng dữ liệu thu thập được để điều chỉnh chính sách, phân bổ nguồn lực và thúc đẩy các mô hình hiệu quả.

Trong khi đó, từ quan điểm thị trường, GS. Edmund Malesky (Đại học Duke, Mỹ) nhận định: sự bền vững trong nông nghiệp xanh chỉ có thể đạt được khi có sự thúc đẩy song song từ chính sách và người tiêu dùng. Kết quả khảo sát của ông tại các nước ASEAN cho thấy doanh nghiệp sẽ sẵn sàng đầu tư vào công nghệ xanh nếu cảm nhận được tiềm năng thị trường rõ ràng và sự cam kết chính sách dài hạn từ phía nhà nước.

Tại một số khu vực ven đô TP.HCM, các mô hình nông nghiệp tuần hoàn đang manh nha hình thành như sử dụng điện mặt trời áp mái, tái chế phụ phẩm nông nghiệp hay dùng chế phẩm vi sinh thay thế thuốc hóa học. Tuy nhiên, phần lớn các mô hình này vẫn còn tự phát, thiếu tính kết nối và chưa đủ điều kiện nhân rộng nếu không có chiến lược hỗ trợ bài bản từ cơ quan quản lý.

GS. Malesky cũng cho rằng không thể áp dụng một chính sách đồng nhất cho tất cả doanh nghiệp trong hành trình xanh hóa. Với các công ty nước ngoài nhắm đến thị trường nội địa, việc tăng cường thanh tra, kiểm soát sẽ hiệu quả. Ngược lại, các doanh nghiệp nội hướng xuất khẩu sẽ chủ động hơn khi đối mặt với áp lực từ tiêu chuẩn môi trường toàn cầu và yêu cầu minh bạch thông tin từ đối tác. Riêng với nhóm doanh nghiệp nhỏ, phân tán, thay vì kiểm tra dàn trải kém hiệu quả, cần thiết lập các cơ chế hỗ trợ và dẫn dắt phù hợp.

Đăng ký đặt báo