Chuyển đổi xanh trong nông nghiệp: Bài toán cần giải từ nông hộ nhỏ lẻ

Nông hộ nhỏ lẻ đang trở thành mắt xích then chốt trong nỗ lực giảm phát thải khí mê-tan, nguyên nhân chính gây biến đổi khí hậu tại Việt Nam. Tuy chiếm phần lớn quy mô trong nông nghiệp, một số nông hộ nhỏ lại phải đối mặt nhiều rào cản về vốn và công nghệ, khiến chuyển đổi xanh nông nghiệp trở thành bài toán khó.

mo-hinh-trong-lua-giam-phat-thai-tai-dong-thap-giam-chi-phi-tang-loi-nhuan-1758938877.webp

Mô hình trồng lúa giảm phát thải tại Đồng Tháp giảm chi phí, tăng lợi nhuận

Nông hộ nhỏ - "vùng trũng" trong chuyển đổi xanh nông nghiệp

Nhiều năm qua, gia đình anh Hoàng Văn Tình, ở phường Trung Thành, tỉnh Thái Nguyên, vẫn duy trì mô hình chăn nuôi gia súc cùng với canh tác nông nghiệp theo hướng truyền thống. Anh cho biết, dù đã từng nghe qua đến các mô hình nông nghiệp sinh thái, ứng dụng biogas trong chăn nuôi nhằm giảm phát thải khí nhà kính, nhưng các khái niệm đó với nông hộ nhỏ như anh vẫn rất mơ hồ.

“Gia đình tôi chỉ chăn nuôi và trồng trọt đủ ăn, hơn nữa việc đầu tư máy móc thì đắt, xây hầm biogas thì cũng phải vài chục triệu đồng, nhà tôi không làm lớn chỉ nuôi vài ba con lợn, gà phục vụ gia đình thì việc đầu tư đó với quy mô thế này là chưa phù hợp”, anh Tình chia sẻ.

dich-ta-lon-chau-phi-dan-lang-diu-001440-101-065439-1758937255.jpg

Nhiều nông hộ nhỏ lẻ hiện nay đang gặp khó khăn trong việc tiếp cận vốn, kiến thức, chi phí theo quy chuẩn kỹ thuật. (Ảnh minh họa)

Cũng như nhà anh Tình, gia đình bà Đinh Thị Quán đã gắn bó với nghề chăn nuôi từ nhiều năm nay, tuy nhiên, điều kiện chuồng trại vẫn rất tạm bợ. Bà Quán chia sẻ: “Gia đình tôi nuôi vài con lợn, mục đích chỉ để lấy thịt và tận dụng phân bón ruộng, mặc dù hàng ngày chịu mùi hôi nồng nặc từ chuồng trại nhưng việc bỏ ra chi phí xây bể biogas với gia đình là quá cao”.

Một số nông hộ khác trên địa bàn cũng có chung quan điểm, thay vì đầu tư hàng chục triệu đồng cho hầm biogas, các hộ dân chăn nuôi nhỏ lẻ chọn cách xử lý chất thải thủ công, xả ra môi trường hoặc ủ ngoài vườn, dù biết ảnh hưởng đến sức khỏe và môi trường xung quanh.

Thực tế, mỗi nông hộ nhỏ chỉ nuôi vài ba con gia súc, nhưng khi cộng gộp lại trên phạm vi toàn xã, toàn huyện, thì lượng phát thải mê-tan từ hàng nghìn chuồng trại nhỏ lẻ này lại trở thành một nguồn phát thải không hề nhỏ.

Theo TS Phạm Công Thiếu, Viện trưởng Viện Chăn nuôi, nông nghiệp Việt Nam không chỉ là ngành chịu tác động mạnh mẽ của biến đổi khí hậu mà còn là nguồn gây phát thải khí nhà kính rất lớn, chiếm 13,9% tổng lượng phát thải khí nhà kính quốc gia. Phát thải ngành nông nghiệp tập trung ở các lĩnh vực trồng lúa nước, chăn nuôi...

Mặc dù đã có các văn bản chính thức như Quyết định 942/QĐ-TTg và Quyết định 1693/QĐ-BNN-KHCN đặt nền móng cho giảm phát thải mê-tan và giảm nhẹ khí nhà kính ngành nông nghiệp, nhưng trong cách thức thực hiện, nhiều chương trình hỗ trợ công nghệ, đo đếm, giám sát lại dễ tiếp cận hơn với trang trại lớn, doanh nghiệp có nguồn lực hơn. Các hộ nhỏ lẻ thường gặp rào cản về vốn, kiến thức, chi phí theo quy chuẩn kỹ thuật.

Trên thực tế, nhiều nông hộ nhỏ hiện nay không thể tự bỏ ra khoản chi phí từ 8 đến 15 triệu đồng để xây dựng hầm biogas, chưa kể các chi phí bảo dưỡng, diện tích đất và yêu cầu kỹ thuật đi kèm. Trong khi đó, chính nhóm nông hộ này lại chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu chăn nuôi cả nước, với lượng phát thải mê-tan cộng dồn không hề nhỏ.

dinhhoa-20230307104127-1758937453.jpg

Đa số các nông hộ trên địa bàn phường Trung Thành, tỉnh Thái Nguyên canh tác nông nghiệp chủ yếu là lúa nước mà chưa có các giải pháp giảm phát thải khí nhà kính.

Không chỉ trong chăn nuôi, ghi nhận nhiều nông hộ trên địa bàn phường Trung Thành, tỉnh Thái Nguyên, cũng đang khó khăn trong xử lý nguồn phát thải lớn từ việc trồng lúa nước. Đa số là các nông hộ nhỏ lẻ với tập quán canh tác ngập nước liên tục, việc sử dụng phân bón chưa hiệu quả và chưa có giải pháp xử lý rơm rạ sau thu hoạch phù hợp đang âm thầm tạo ra lượng khí mê-tan đáng kể.

Theo Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Hoàng Trung, tổng lượng phát thải khí nhà kính của Việt Nam đạt khoảng 454,6 triệu tấn CO2 tương đương, gần gấp đôi so với năm 2010. Trong đó, lĩnh vực nông nghiệp phát thải khoảng 116,51 triệu tấn CO₂ tương đương, riêng trồng trọt chiếm khoảng 80% tổng phát thải ngành nông nghiệp.

Phát thải chủ yếu đến từ khí mê tan trong sản xuất lúa nước do tập quán canh tác ngập nước liên tục, việc sử dụng phân bón chưa hiệu quả và chưa có giải pháp xử lý rơm rạ sau thu hoạch phù hợp. Dự báo đến năm 2030, tổng lượng phát thải quốc gia có thể lên tới gần 990,15 triệu tấn CO2 tương đương.

Trước bối cảnh đó, Thứ trưởng Hoàng Trung nhận định: “Việc chuyển đổi mô hình sản xuất trồng trọt theo hướng phát thải thấp, thích ứng với biến đổi khí hậu là yêu cầu cấp thiết”.

Mỗi nông hộ phải là một mắt xích quan trọng của nông nghiệp xanh

Điểm nghẽn cho nông nghiệp xanh không nằm ở các văn bản chính sách, mà ở khoảng cách giữa chính sách và thực tiễn. Bởi phần lớn nông hộ nhỏ lẻ vẫn chưa được tiếp cận kỹ thuật, thiếu vốn để đầu tư, và chưa được trang bị kiến thức để trở thành một phần của nỗ lực giảm phát thải.

Trong bối cảnh Việt Nam cam kết đưa mức phát thải ròng về “0” vào năm 2050 và giảm 30% lượng phát thải khí mê-tan vào năm 2030 so với năm 2020, việc chuyển đổi sang nông nghiệp xanh, phát thải thấp không còn là lựa chọn, mà là yêu cầu cấp thiết. Để mục tiêu này trở thành hiện thực, điều quan trọng là phải đặt nông hộ nhỏ - vốn là lực lượng chiếm đa số trong cơ cấu nông nghiệp vào vị trí trung tâm của các chính sách và giải pháp giảm phát thải.

Đối với các nông hộ nhỏ lẻ như gia đình bà Quán (phường Trung Thành, tỉnh Thái Nguyên), việc không có các chính sách “đo ni đóng giày” cho từng nhóm nông hộ, thì những giải pháp dù có định hướng đúng vẫn khó đi vào đời sống sản xuất thường nhật và khiến mỗi nông hộ trở thành một mắt xích quan trọng trong quá trình chuyển đổi xanh nông nghiệp.

0710-15-175213023031317664351-1758937933.jpg

Mô hình trồng lúa áp dụng kỹ thuật khoa học giảm phát thải tại xã Ứng Hòa, TP Hà Nội.

Bà Nguyễn Thị Thu Hương, Phó Cục trưởng Cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật, cho biết, ngành nông nghiệp sẽ triển khai ít nhất 15 mô hình sản xuất giảm phát thải tại các vùng sinh thái có khả năng nhân rộng, thí điểm tối thiểu 5 mô hình canh tác có khả năng phát triển tín chỉ carbon đạt yêu cầu của các tổ chức quốc tế. Đồng thời, xây dựng và ban hành ít nhất 5 gói kỹ thuật sản xuất giảm phát thải áp dụng cho 5 cây trồng chủ lực. Hình thành cơ sở dữ liệu phát thải theo cây trồng và vùng sinh thái, kết nối đồng bộ với Hệ thống đăng ký quốc gia.

Bên cạnh đó, đề án đề xuất tổ chức đào tạo và tập huấn kỹ thuật, chính sách, công cụ đo phát thải cho tối thiểu 3.000 cán bộ kỹ thuật cơ sở, khuyến nông, nông dân và doanh nghiệp trên toàn quốc. Cùng với đó là xây dựng ít nhất 5 bộ tài liệu truyền thông để phổ biến kiến thức và thúc đẩy thay đổi hành vi sản xuất theo hướng giảm phát thải. Như vậy, các nông hộ dù là nhỏ lẻ tại các địa phương cũng có điều kiện được hỗ trợ, tham gia và tiếp cận về mặt kỹ thuật.

Tương tự trong chăn nuôi, Viện Chăn nuôi - Bộ Nông nghiệp và Môi trường xây dựng Dự án “Nâng cao năng lực kiểm kê, đo lường, báo cáo và thẩm định phát thải khí nhà kính lĩnh vực chăn nuôi ở Việt Nam”.

dsc2265-104040-609-1758938240.jpg

PGS.TS Phạm Doãn Lân, Phó Viện trưởng Viện Chăn nuôi cho biết, việc nâng cao năng lực kiểm kê, đo lường, báo cáo và thẩm định phát thải khí nhà kính là cần thiết.

Theo PGS.TS Phạm Doãn Lân, Phó Viện trưởng Viện Chăn nuôi, Giám đốc Dự án, hiện nay, khi ước tính lượng khí nhà kính từ chăn nuôi, Việt Nam vẫn đang dùng chung hệ số phát thải bậc 1 (Tier 1) theo đề xuất của Ủy ban Liên chính phủ về biến đổi khí hậu (IPCC)chưa có hệ số phát phải khí nhà kính mang tính quốc gia trong nhiều lĩnh vực, trong đó có chăn nuôi. Việc đạt được kiểm kê khí nhà kính theo phương pháp IPCC Tier 1 cơ bản là ưu tiên trước mắt.

Đồng thời phát triển phương pháp IPCC Tier 2 để kiểm kê khí nhà kính sẽ mang lại thông tin chính xác hơn, đáp ứng được yêu cầu của quốc gia khi thực hiện các hành động giảm thiểu khí nhà kính trong lĩnh vực nông nghiệp.

Trong khuôn khổ của dự án, Viện Chăn nuôi đã tiến hành nghiên cứu một cách chuyên sâu và bài bản, giúp doanh nghiệp và người dân yên tâm hơn khi có sự đồng hành của một cơ quan chuyên môn. Sự hợp tác với các nhà khoa học không chỉ hỗ trợ các doanh nghiệp và người dân đáp ứng các yêu cầu pháp lý mà còn đảm bảo yếu tố môi trường.

Do đó, trong bức tranh tổng thể của chuyển đổi xanh nông nghiệp, nông hộ nhỏ không thể chỉ đứng bên lề như đối tượng hỗ trợ, mà cần được xem là một chủ thể tham gia trực tiếp vào quá trình giảm phát thải.

article-1758938764.jpg

Mô hình chăn nuôi bò tại một nông hộ thuộc tỉnh Thái Nguyên.

Tại Hội thảo “Tuyên truyền, nâng cao nhận thức về giảm phát thải khí mê-tan”, Phó Cục trưởng Cục Biến đổi khí hậu (Bộ Nông nghiệp và Môi trường), TS. Mai Kim Liên cũng đã nhấn mạnh: “Để các chính sách giảm phát thải thực sự đi vào cuộc sống, cần có sự chung tay từ nhiều phía: Cơ quan quản lý trung ương, địa phương; cộng đồng khoa học; doanh nghiệp; tổ chức xã hội và từng người dân".

Điều này đồng nghĩa với việc cần dịch chuyển tư duy chính sách: thay vì chỉ hỗ trợ kỹ thuật hay đầu tư hạ tầng, cần trao cho nông hộ quyền chủ động và cơ chế khuyến khích rõ ràng: ví dụ như cơ chế tín chỉ carbon cho hộ gia đình, hỗ trợ tài chính vi mô, hoặc mô hình tổ hợp tác hỗ trợ chung hầm biogas cho cả nhóm hộ. Khi người dân thấy lợi ích thiết thực, họ sẽ sẵn sàng thay đổi thói quen sản xuất cũ để tiến tới mô hình nông nghiệp xanh.

Đăng ký đặt báo