Yên Bái thực hiện nhiều giải pháp bảo vệ và phát triển rừng bền vững

Yên Bái là tỉnh có nhiều tiềm năng, lợi thế phát triển lâm nghiệp, những năm qua, ngoài việc làm tốt công tác quản lý, bảo vệ rừng tại gốc, công tác phát triển rừng cũng đặc biệt được chú trọng. Nhờ duy trì hiệu quả công tác bảo vệ và phát triển rừng, tỷ lệ che phủ rừng đạt 63%, nằm trong tốp cao của cả nước.

Theo Quyết định số 448/QĐ-UBND ngày 3/4/2023 của UBND tỉnh Yên Bái, diện tích đất có rừng toàn tỉnh bao gồm cả rừng trồng chưa thành rừng là 463.811,3 ha. Trong đó, rừng tự nhiên là 215.912,9 ha; rừng trồng là 218,207,3 ha (trong đó có gần 30 ha diện tích đã trồng chưa đạt tiêu chí thành rừng). Diện tích đất có rừng đủ tiêu chuẩn để tính tỷ lệ che phủ rừng tỉnh Yên Bái là 434.120,2 ha; tỷ lệ che phủ rừng là 63%.

Anh Trần Văn Son tổ trưởng bảo vệ rừng bản Nả, xã Việt Hồng cho biết, hiện tổ đang quản lý 457ha rừng phòng hộ đầu nguồn, các loại cây gỗ bản địa như dổi, de, sến, táu nhờ quản lý chặt chẽ nên phát triển tốt. Cách quản lý của tổ là phân chia từng lô, thửa rừng cho 17 thành viên tuần tra theo định kỳ và đột xuất. Từ tiền khoán bảo vệ rừng và tiền chi trả dịch vụ môi trường rừng, bình quân 300 nghìn đồng/ha/năm, tổ bảo vệ rừng bản Nả hoạt động hiệu quả, đã bảy năm liên tục không để xảy ra cháy rừng, không có vụ việc nào liên quan đến hủy hoại rừng.

rung-yen-bai-1684230526.jpg
Ảnh minh họa.

Ông Trần Cao Thắng (69 tuổi), trú tại bản Nả, xã Việt Hồng chia sẻ, mình cả đời sống ở rừng nên rất hiểu giá trị của “lá phổi xanh”. Trước đây, việc trồng, bảo vệ và phát triển rừng luôn gặp khó khăn, cán bộ phải đến từng thôn, từng nhà để vận động người dân. Đến nay, không phải vận động nữa mà đã trở thành một nghề, một nguồn thu nhập chính của người dân nơi đây. Có rừng, các loại cầy rừng, lợn rừng và chim còn khá phong phú, đặc biệt nước sạch đầu nguồn được gần 500 hộ dân bản Nả, bản Bến, bản Vần trong xã sử dụng sinh hoạt hằng ngày. Có nước sạch, các ao nuôi cá tầm, cá trắm, cá lăng… đã được thương lái chọn mua phục vụ các nhà hàng trong khu vực.

Theo Hạt trưởng Kiểm lâm Trấn Yên Đỗ Văn Hùng, để giữ vững tỷ lệ che phủ rừng đạt 70%, Hạt đã chỉ đạo cán bộ kiểm lâm địa bàn tham mưu cho UBND các xã, tiến hành tổ chức Hội nghị thành lập các Ban quản lý rừng cộng đồng dân cư thôn, bản tiến hành ký hợp đồng khoán bảo vệ rừng đối với các cộng đồng dân cư nhận khoán tại các xã. Đến nay, Trấn Yên đã thành lập 45 cộng đồng dân cư thôn bản tại các xã, thực hiện khoán bảo vệ rừng tự nhiên phòng hộ và tự nhiên sản xuất với diện tích hơn 9.371ha, tại 14 xã với 579 thành viên. Cuối năm 2022, Hạt kiểm lâm huyện đã nghiệm thu diện tích rừng tự nhiên khoán bảo vệ 9.359,98ha để thực hiện chi trả khoán bảo vệ rừng đến 44 ban quản lý cộng đồng ở 14 xã, bảo đảm đúng, đủ, kịp thời, góp phần giúp người dân có thu nhập chính đáng từ rừng.

Được biết, Hạt kiểm lâm huyện Trấn Yên hiện quản lý giống gần 5 vạn cây dổi; hơn 20 triệu cây quế; 43 vạn củ tre măng bát độ, và hơn 55 vạn loài cây lâm nghiệp khác. Trên địa bàn có 20 cơ sở sản xuất kinh doanh đã được cấp giấy phép kinh doanh, còn 491 cơ sở sản xuất là hộ gia đình kinh doanh sản xuất giống cây trồng bán tự do trên thị trường. Qua công tác quản lý từ gốc, đã chủ động nguồn giống, bảo đảm cung ứng ra thị trường chất lượng tốt nhất.

Anh Nguyễn Văn Chiến ở thôn An Hòa, xã Y Can cũng đã tích cực trồng rừng bằng cây quế, cây keo lai. Với phương châm “lấy ngắn nuôi dài” trồng quế, keo khi cây khép tán tiến hành tỉa thưa và để lại những cây to, khỏe, dáng đẹp, từ những héc-ta rừng đầu tiên, đến nay gia đình anh đã phát triển được 40ha rừng, trong đó có gần 30ha quế, còn lại là giống keo lai, keo nhập nội.

que-1684230620.jpg
Cây quế đã trở thành cây trồng chủ lực có giá trị cao, là nguyên liệu quý để sản xuất trong ngành dược liệu, mỹ phẩm, chế biến đồ mỹ nghệ, nên người dân ở Yên Bái ai cũng coi quế là lộc trời ban. (Ảnh minh họa)

Anh Chiến cho biết, trồng quế hay keo không khó lắm, nhưng quan trọng nhất là giống phải bảo đảm chất lượng, khi cây được 6 đến 7 năm, là được khai thác nhưng bán gỗ non hiệu quả thấp, chỉ đạt 70-80 triệu đồng/ha sau chu kỳ 8 năm. Nếu tỉa thưa, kinh doanh rừng gỗ lớn, sau 17 năm giá trị kinh tế lớn hơn rất nhiều, có thể gấp đôi, gấp ba. 5ha rừng keo gỗ lớn của gia đình, sau tỉa thưa nay chỉ còn hơn 100 cây/ha, những cây bé nhất sau 17 năm đã đạt vành hơn 150cm, bình quân mỗi cây đạt 1,2m3, đã có người trả 320 triệu đồng/ha tự thu hoạch nhưng gia đình chưa bán.

Chi cục trưởng Kiểm lâm tỉnh Yên Bái, Kiều Tư Giang cho hay, việc trồng rừng được Yên Bái tích cực triển khai, hằng năm trồng được hơn 15.000ha rừng các loại, trong đó 94% là rừng sản xuất. Nhờ đó, giai đoạn 2013-2022, diện tích đất có rừng tăng thêm 26.189ha; năng suất, chất lượng rừng đã từng bước được cải thiện theo từng năm, tỷ lệ che phủ của rừng đến nay đạt 63% tăng 11% so với năm 2013. Hằng năm, hàng vạn người dân trong tỉnh có thu nhập hơn 100 tỷ đồng từ hưởng dịch vụ môi trường rừng của hơn 200 nghìn ha rừng đầu nguồn.

Được biết, Yên Bái phấn đấu sẽ trở thành trung tâm chế biến gỗ rừng trồng công nghệ cao của vùng Trung du và miền núi phía Bắc./.

Ông Tô Xuân Quý, Giám đốc Quỹ bảo vệ và phát triển rừng cho biết, qua thời gian triển khai thực hiện chi trả phí dịch vụ môi trường rừng (DVMTR) trên địa bàn tỉnh, người dân và các chủ rừng nằm trong lưu vực được chi trả phí DVMTR đã ý thức hơn trong phát triển, quản lý và bảo vệ rừng. Tình trạng xâm chiếm đất rừng, phá rừng, khai thác lâm sản trái phép gần như không còn xảy ra trong diện tích rừng được hưởng phí DVMTR. Cùng với đó, phí DVMTR còn là nguồn lực quan trọng giúp tăng thu nhập cho người trồng rừng, góp phần xóa đói giảm nghèo, xây dựng nông thôn mới, nhất là ở vùng cao, vùng đồng bào dân tộc thiểu số.

Có thể khẳng định, chính sách chi trả DVMTR không chỉ huy động được nguồn lực xã hội mà còn bổ sung thêm nguồn tài chính cho phát triển rừng, thực hiện chủ trương xã hội hóa nghề rừng, góp phần cải thiện sinh kế, ổn định đời sống, nâng cao nhận thức và trách nhiệm của xã hội với công tác bảo vệ và phát triển rừng. Qua đó, nâng cao năng lực quản lý, sử dụng và bảo vệ rừng cho các chủ rừng, góp phần thực hiện hoàn thành chiến lược phát triển lâm nghiệp của tỉnh.

Ánh Dương (t/h)