Người lao động cần chủ động trang bị kỹ năng trong thời đại công nghệ số

Dưới sự tăng tốc của chuyển đổi số, nhiều công việc truyền thống sẽ dần biến mất hoặc bị thay thế, trong khi một số vị trí mới sẽ ra đời. Vì vậy, người lao động cần chủ động trang bị kỹ năng để thích ứng trong thời đại công nghệ số.

Theo Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội, với tỷ lệ lao động kỹ năng cao chỉ đạt 11,6%, lao động Việt Nam được đánh giá là kém cạnh tranh hơn về trình độ kỹ năng so với một số thị trường khác trong khu vực như Thái Lan, Philippines hay Malaysia.

Ngân hàng Thế giới (World Bank) ước tính rằng nếu tỉ lệ lao động kỹ năng cao tại Việt Nam quá thấp và không đủ để đáp ứng với tốc độ phát triển của chuyển đổi số, khoảng 2 triệu việc làm tại nước ta sẽ bị mất đi tính đến năm 2045.

Đánh giá về vấn đề này, tại hội thảo "Xu hướng thị trường lao động trong kỷ nguyên số", Thứ trưởng Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội Nguyễn Bá Hoan cho biết, việc bảo đảm việc làm và tăng cường kỹ năng cho người lao động trong bối cảnh chuyển đổi số là một trong những mục tiêu quan trọng đối với mỗi quốc gia. Sự bùng nổ ứng dụng công nghệ số, thiết bị thông minh và xu hướng ứng dụng robot vào sản xuất kinh doanh như hiện nay đang đặt ra thách thức đối với thị trường lao động với trình độ kỹ năng còn nhiều hạn chế như Việt Nam.

chuyen-doi-so-1667897388.jpgNgười lao động cần chủ động trang bị kỹ năng trong thời đại công nghệ số. Ảnh MPI.

Theo Thứ trưởng, nguồn lao động dồi dào, giá rẻ sẽ không còn là yếu tố tạo nên lợi thế cạnh tranh và thu hút đầu tư nước ngoài. Trong bối cảnh đó, thị trường lao động trong nước sẽ cần những giải pháp toàn diện từ tất cả các bên liên quan để hướng tới nâng cao chất lượng tuyển dụng và đào tạo nguồn nhân lực trong tình hình mới.

Đồng quan điểm, ông Andree Mangels, Tổng Giám đốc ManpowerGroup Việt Nam chia sẻ, công nghệ không ngừng thay đổi đồng nghĩa với yêu cầu liên tục cập nhật kỹ năng số cho người lao động. Doanh nghiệp cần linh hoạt áp dụng các chương trình nâng cao kỹ năng, đồng thời cũng cần xây dựng một chiến lược đào tạo có tầm nhìn dài hạn sao cho người lao động có thể đảm nhiệm tốt những công việc hiện tại và cả những vị trí sẽ xuất hiện trong tương lai.

Đã có không ít lo ngại về việc chuyển đổi số tạo ra biến động trong thị trường lao động, đặc biệt ở những quốc gia có năng suất lao động thấp và chủ yếu dựa vào gia công, lắp ráp. Tuy vậy, cũng có nhiều nhận định tích cực, đơn cử như Ngân hàng Thế giới cho rằng số lượng việc làm mới do quá trình chuyển đổi số tạo ra sẽ nhiều hơn gấp 7 lần so với số việc làm bị mất đi. Đến năm 2045, ước tính có khoảng 10 triệu việc làm mới được tạo ra, chủ yếu trong các ngành dịch vụ hiện đại, và một số lượng việc làm mới trong lĩnh vực sản xuất.

Ngân hàng Thế giới cũng cảnh báo điều này phụ thuộc vào thực tế lực lượng lao động trong nước có đủ kỹ năng phù hợp thông qua các nền tảng số hay không, trong bối cảnh nguy cơ mất đi các việc làm truyền thống có thể xảy ra ngay lập tức.
Bên cạnh đó, việc bảo đảm an sinh xã hội cho người lao động dưới tác động của chuyển đổi số cũng là một vấn đề nổi cộm. Kết quả khảo sát trực tuyến của Tổ chức Lao động quốc tế cho thấy một tỷ lệ rất nhỏ người được hỏi (khoảng 20%) trong số những người lao động làm việc trên nền tảng số cho biết họ được bảo hiểm về thương tật, thất nghiệp, hoặc hưởng lương hưu, trợ cấp hưu trí tuổi già (bao gồm cả chương trình hưu trí công và tư).

Với Việt Nam, trước những thách thức đăng đặt ra đối với thị trường lao động Việt Nam, Thứ trưởng Nguyễn Bá Hoan cho biết, để phát triển thị trường lao động thích ứng với quá trình chuyển đổi số, trong những năm qua, ngành Lao động - Thương binh và Xã hội đã tập trung thực hiện nhiều giải pháp trọng tâm.

Cụ thể: Áp dụng công nghệ, số hóa trong việc kết nối cung cầu lao động; Tăng cường hoạt động tư vấn, giới thiệu việc làm của các Trung tâm dịch vụ việc làm trên cả nước; Ưu tiên nâng cao kỹ năng nghề cho người lao động đáp ứng yêu cầu mới. Kết quả đạt được từ các giải pháp trên đã giúp tỷ lệ lao động có bằng, chứng chỉ từ sơ cấp trở lên liên tục tăng qua các năm (tỷ lệ qua các năm 2019, 2020, 2021 và 2022 lần lượt là 22,37%; 24,6%; 26,1% và 26,2%).

Hương Lan (t/h)