Người nông dân đổi mới tư duy, tạo giá trị từ chăn nuôi xanh
Nhắc đến bà Lê Thị Thường (ở thôn Tân Đa, xã Tân Mỹ, tỉnh Quảng Trị), nhiều người không khỏi khâm phục sự mạnh dạn thay đổi của bà. Cách đây hơn hai năm, khi dịch tả lợn châu Phi hoành hành khiến hàng loạt hộ chăn nuôi truyền thống lao đao, bà quyết định chuyển hướng sang mô hình chăn nuôi hữu cơ theo chuỗi giá trị Quế Lâm. Bắt đầu chỉ với 3 con lợn nái, đến nay gia đình bà đã phát triển lên 5 nái, xuất bán đều đặn hơn 50 con lợn thịt mỗi năm, mang lại thu nhập khoảng 120 triệu đồng. Điều đáng chú ý là chuồng trại của bà luôn an toàn trước dịch bệnh.
Không chỉ có bà Thường, nhiều hộ dân khác cũng đã ghi nhận thành công nhờ mô hình hữu cơ. Chị Đỗ Thị Thủy ở thôn Trung Thiện duy trì trang trại 40 con lợn, 5 nái, áp dụng biện pháp tiêu độc khử trùng, xông thảo dược và đệm lót sinh học, thu về trên 150 triệu đồng/năm. Tại xã Nam Ba Đồn, anh Đoàn Thanh Lâm mở rộng quy mô lên 15 nái, mỗi năm xuất chuồng khoảng 200 con lợn hữu cơ, đạt doanh thu trên 400 triệu đồng. Đáng chú ý, toàn bộ phụ phẩm trong chăn nuôi đều được tái chế làm phân hữu cơ, khép kín trong chuỗi “5 không”: không mùi hôi, không xả thải, không kháng sinh, không nước tắm, không chất cấm.
Khác với chăn nuôi công nghiệp vốn để lại gánh nặng chất thải và nguy cơ ô nhiễm, chăn nuôi hữu cơ đang góp phần kiến tạo hệ sinh thái nông nghiệp xanh. Về môi trường, chất thải được xử lý bằng chế phẩm sinh học, ủ thành phân compost hoặc khí biogas, giúp hạn chế phát thải methane – loại khí nhà kính có tác động mạnh. Mô hình VAC hữu cơ còn thúc đẩy đa dạng sinh học, cân bằng tự nhiên, đồng thời tăng khả năng giữ carbon trong đất nhờ giảm phân bón hóa học và thuốc bảo vệ thực vật.
Ở góc độ sức khỏe, vật nuôi được chăm sóc trong điều kiện tự nhiên, ăn thức ăn hữu cơ kết hợp thảo dược nên có sức đề kháng tốt, ít bệnh tật, loại bỏ tình trạng lạm dụng kháng sinh. Nhờ vậy, sản phẩm an toàn, dinh dưỡng cao, phù hợp với nhóm người tiêu dùng quan tâm đến sức khỏe.
Từ khía cạnh kinh tế – xã hội, chăn nuôi hữu cơ mang lại giá trị gia tăng cao, sản phẩm thường bán cao hơn 20–40% so với hàng thông thường, đồng thời tạo sinh kế bền vững, giúp nông dân yên tâm gắn bó với nghề. Mô hình này còn thúc đẩy sự liên kết cộng đồng thông qua hợp tác xã, chuỗi giá trị khép kín, doanh nghiệp bao tiêu sản phẩm. Một số địa phương đã kết hợp trang trại hữu cơ với du lịch sinh thái, mở ra hướng phát triển kép, vừa gia tăng thu nhập, vừa lan tỏa lối sống xanh.
Cần chính sách và liên kết chuỗi để chăn nuôi hữu cơ bứt phá
Mặc dù triển vọng rõ rệt, chăn nuôi hữu cơ ở Việt Nam vẫn gặp nhiều thách thức. Chi phí đầu tư ban đầu cao là rào cản lớn, bởi chuồng trại, quỹ đất và nguồn thức ăn hữu cơ đòi hỏi vốn đầu tư cao hơn chăn nuôi truyền thống. Về kỹ thuật, việc kiểm soát dịch bệnh khó khăn khi không dùng kháng sinh, trong khi lực lượng thú y am hiểu mô hình hữu cơ còn hạn chế. Thị trường tiêu thụ trong nước cũng chưa thực sự thuận lợi do người tiêu dùng chưa phân biệt rõ “sạch” và “hữu cơ”, niềm tin vào chứng nhận còn dè dặt. Ngoài ra, sản phẩm hữu cơ trong nước phải cạnh tranh với hàng nhập khẩu từ EU, Mỹ, Úc – vốn có thương hiệu mạnh và giá cạnh tranh.
Các chuyên gia cho rằng, để chăn nuôi hữu cơ trở thành hướng đi bền vững, cần triển khai đồng bộ nhiều giải pháp. Về chính sách, Nhà nước cần ưu đãi tín dụng, hỗ trợ chi phí chứng nhận, miễn giảm thuế để giảm gánh nặng tài chính. Về nhân lực, cần đào tạo đội ngũ thú y, khuyến nông am hiểu sâu về kỹ thuật hữu cơ. Về thị trường, cần thúc đẩy liên kết chuỗi giá trị với sự tham gia của doanh nghiệp, nông dân, nhà khoa học và cơ quan quản lý, bảo đảm sản phẩm có đầu ra bền vững. Bên cạnh đó, việc xây dựng thương hiệu và truyền thông phải được đẩy mạnh, tạo niềm tin thông qua hệ thống truy xuất nguồn gốc minh bạch. Cuối cùng, ứng dụng công nghệ hiện đại như IoT, blockchain hay công nghệ xử lý chất thải thông minh sẽ giúp nâng cao hiệu quả sản xuất, kiểm soát chất lượng và phát triển bền vững./.