Những yếu tố then chốt giúp Việt Nam duy trì vị thế trung tâm thu hút FDI

Thành tựu thu hút đầu tư nước ngoài (FDI) trong gần 4 thập kỷ qua đã minh chứng rõ nét về vai trò quan trọng của khu vực kinh tế FDI đối với tăng trưởng kinh tế, hội nhập quốc tế và phát triển thịnh vượng của Việt Nam.
z6534031305280-2d30b102f5b01e3245f869edf9ddb72b-1745402968.jpg
Diễn đàn Nhịp cầu Phát triển Việt Nam 2025 (lần thứ 5) – Vietnam Connect Forum 2025. (Ảnh Hương Lan)

Theo số liệu được đưa ra tại Diễn đàn Nhịp cầu Phát triển Việt Nam 2025 (lần thứ 5) – Vietnam Connect Forum 2025, tính lũy kế đến hết tháng 3/2025, Việt Nam có hơn 42.760 dự án FDI còn hiệu lực, với tổng vốn đăng ký đạt hơn 510 tỷ USD. Vốn thực hiện lũy kế ước đạt gần 327,5 tỷ USD, bằng gần 64,2% tổng vốn đầu tư đăng ký còn hiệu lực. Ngày càng nhiều tập đoàn đa quốc gia, các doanh nghiệp lớn với công nghệ hiện đại đã và đang đầu tư tại Việt Nam như Samsung, Intel, Foxxcon, Amkor v.v...

Riêng năm 2024, FDI đóng góp 16,5% tổng vốn đầu tư toàn xã hội, gần 72% tổng kim ngạch xuất khẩu, đóng góp hơn 20 tỷ USD vào ngân sách nhà nước.

Bên cạnh đó, thống kê sơ bộ cho thấy, khu vực FDI đã góp phần giải quyết khoảng hơn 5 triệu việc làm, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực và đem lại nguồn thu nhập khả quan cho người lao động.

Trước những kết quả đã đạt được, ông Lim Dyi Chang, Giám đốc Cấp cao Khối Khách Hàng Doanh Nghiệp, Ngân hàng UOB Việt Nam, nhận định trong bối cảnh những dịch chuyển sâu rộng đang tái định hình cục diện thương mại toàn cầu, Việt Nam không chỉ đang nổi lên như một điểm sáng về thu hút dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), mà còn là một trong những thị trường tiềm năng thu hút sự quan tâm mạnh mẽ từ các nhà đầu tư quốc tế.

Vì vậy, để giữ vững và phát triển vị trí là một trung tâm FDI, ông Lim Dyi Chang đề xuất rằng Việt Nam cần tập trung vào một số yếu tố then chốt nhằm duy trì sự cạnh tranh và bền vững trong tương lai. Như ưu tiên phát triển hạ tầng hiện đại và đồng bộ, đặc biệt trong các lĩnh vực logistics, năng lượng và kết nối số - nền tảng thiết yếu để bảo đảm hiệu quả vận hành và khả năng mở rộng của doanh nghiệp.

z6533901753110-2735f35c66a8995d20abe11a69fb1129-1745402968.jpg
Ông Lim Dyi Chang, Giám đốc Cấp cao Khối Khách Hàng Doanh Nghiệp, Ngân hàng UOB Việt Nam.

Đồng thời duy trì môi trường pháp lý minh bạch, ổn định và hiệu quả, từ đó góp phần củng cố lòng tin của nhà đầu tư và nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia.

Bên cạnh đó, cần đẩy mạnh sự hợp tác chặt chẽ giữa khu vực công và tư, đặc biệt trong lĩnh vực phát triển nguồn nhân lực, tuân thủ quy định và thúc đẩy đổi mới sáng tạo - những yếu tố then chốt cho sức cạnh tranh dài hạn.

Đặc biệt cần duy trì hệ sinh thái tài chính mở và hiệu quả, hỗ trợ luân chuyển vốn, đáp ứng nhu cầu tài trợ đa dạng và thúc đẩy đổi mới tài chính. Phát triển tầng lớp trung lưu phát triển mạnh mẽ, yếu tố này không chỉ thúc đẩy tiêu dùng nội địa mà còn đóng vai trò quan trọng trong cung ứng lao động có kỹ năng cho Việt Nam trong thời gian tới.

Cam kết mạnh mẽ với phát triển bền vững và các tiêu chuẩn ESG, đây là yếu tố thiết yếu trong quyết định đầu tư của các định chế tài chính toàn cầu. Cũng như cần phát triển chính sách linh hoạt, phù hợp với sự phát triển của nền kinh tế số, từ đó tạo điều kiện cho đổi mới sáng tạo trong một môi trường quản trị hiệu quả.

“Trong kỷ nguyên FDI mới, Việt Nam đang đứng trước cơ hội vàng để vươn lên trở thành điểm đến đầu tư chiến lược, giá trị cao và sẵn sàng cho tương lai. Tuy nhiên, thành công không thể đến chỉ bằng các biện pháp xúc tiến hay cải cách chính sách. Đó còn là câu chuyện của nền tảng vững chắc  của việc đầu tư vào hạ tầng, con người, niềm tin và sự chuyển đổi”, ông  Lim Dyi Chang khẳng định.

Đồng quan điểm, ông Nguyễn Hồng Sơn - Phó Trưởng ban Chính sách, Chiến lược Trung ương, khẳng định Việt Nam đã trở thành điểm đến hấp dẫn của các tập đoàn quốc tế lớn.

z6533857041667-2c7b9789797367983740f11539bc172f-1745402968.jpg
Ông Nguyễn Hồng Sơn - Phó Trưởng ban Chính sách, Chiến lược Trung ương.

Để hiện thực hóa các mục tiêu đã đề ra, theo ông Nguyễn Hồng Sơn, Việt Nam đang triển khai nhiều giải pháp đột phá, trong đó có các cải cách có tính cách mạng như tinh gọn bộ máy, nâng cao hiệu lực, hiệu quả của hệ thống chính trị.

Đồng thời, sắp xếp lại địa giới hành chính; xây dựng chính quyền địa phương hai cấp; nâng cao chất lượng tăng trưởng thông qua phát triển khoa học – công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số (theo tinh thần Nghị quyết 57-NQ/TW của Bộ Chính trị); tăng cường hiệu quả hợp tác quốc tế (theo Nghị quyết 59-NQ/TW).

Bên cạnh đó, Việt Nam đẩy mạnh hoàn thiện thể chế, xóa bỏ các rào cản và nút thắt, phát triển trung tâm tài chính quốc tế, trung tâm đổi mới sáng tạo quốc gia; đơn giản hóa thủ tục hành chính, cắt giảm mạnh chi phí kinh doanh và điều kiện kinh doanh không cần thiết.

Tuy nhiên, ông Sơn cho rằng, những thay đổi mang tính chiến lược này đặt ra yêu cầu cấp thiết đối với việc định hình lại chính sách thu hút, quản lý và sử dụng vốn đầu tư nước ngoài. Thay vì thu hút đại trà, Việt Nam đang chuyển sang chiến lược chọn lọc, định hướng rõ ràng hơn vào các dự án có giá trị gia tăng cao, thân thiện với môi trường, có tính kết nối chuỗi, trung tâm R&D và công nghiệp nền tảng.

Ngoài ra, cần thiết lập cơ chế hậu kiểm, đánh giá định kỳ và có chế tài thu hồi ưu đãi nếu vi phạm, nhằm nâng cao kỷ cương trong quản lý đầu tư.

Song song đó, theo ông Sơn cần tăng cường liên kết giữa khu vực FDI với khu vực kinh tế trong nước, phát triển hạ tầng chiến lược, đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, thúc đẩy đầu tư vào các vùng trọng điểm như miền Trung, Tây Nguyên, Đồng bằng sông Cửu Long, và siết chặt quản lý nhằm ngăn chặn hiện tượng chuyển giá, núp bóng trong đầu tư…/.

Đăng ký đặt báo