Từ chính sách đến thực thi: Doanh nghiệp Việt vẫn gặp khó khăn trong theo đuổi ESG

Danh mục phân loại xanh, thị trường tài chính xanh và loạt chính sách ưu đãi đang tạo khung thể chế chưa từng có cho doanh nghiệp. Dù vậy, phần lớn doanh nghiệp vẫn khó tiếp cận tín dụng xanh cũng như thiếu công nghệ, dữ liệu cũng như nguồn nhân lực để bước vào cuộc đua chuyển đổi số và chuyển đổi xanh.
79be3a42f0e77cb925f6-1764232867.jpg
Hội thảo “Động lực cho kỷ nguyên bền vững” sáng 27/11.

Trong những năm qua và đặc biệt là năm 2025, Việt Nam đã chủ động thực hiện những thay đổi chiến lược sâu rộng nhằm thích nghi với thực tiễn và phát triển bền vững.

Đảng và Chính phủ đang nỗ lực thúc đẩy mô hình tăng trưởng mới, với các trọng tâm tạo môi trường thuận lợi để doanh nghiệp phát triển và đổi mới sáng tạo. Tăng cường đầu tư vào nghiên cứu, ứng dụng công nghệ cao để nâng cao năng lực cạnh tranh và hiệu quả kinh tế. Đồng thời, ưu tiên vào triển khai chiến lược phát triển dựa trên “bộ tứ Nghị quyết trụ cột” (Nghị quyết 57-NQ/TW, Nghị quyết 59-NQ/TW, Nghị quyết 66-NQ/TW, Nghị quyết 68-NQ/TW).

Bước tiến lớn về khung thể chế

Phát biểu tại hội thảo “Động lực cho kỷ nguyên bền vững” do báo Tài chính – Đầu tư tổ chức sáng 27/11, Thứ trưởng Bộ Tài chính Nguyễn Đức Tâm cho biết, cùng với chuyển đổi số, chuyển đổi xanh đang là định hướng chiến lược mà Chính phủ Việt Nam kiên định theo đuổi.

Thực hiện chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, Bộ Tài chính đã ban hành và triển khai Danh mục Phân loại xanh, bao gồm 45 loại hình dự án thuộc 7 nhóm ngành kinh tế trọng điểm như năng lượng tái tạo, giao thông xanh, xây dựng bền vững, nông nghiệp tuần hoàn và dịch vụ môi trường như một công cụ chính sách quan trọng nhằm nhận diện, đánh giá và thúc đẩy các dự án đầu tư thân thiện môi trường.

“Đây là bước tiến lớn trong việc thiết lập khung thể chế cho thị trường tài chính xanh, giúp huy động hiệu quả các nguồn lực trong và ngoài nước cho phát triển bền vững”, Thứ trưởng Bộ Tài chính nói và cho biết thêm, từ đầu năm đến nay, tổng giá trị phát hành trái phiếu xanh trong nước đã tăng hơn 60% so với cùng kỳ, chứng tỏ niềm tin của nhà đầu tư vào cam kết phát triển xanh của Chính phủ và doanh nghiệp Việt Nam.

Lãnh đạo Bộ Tài chính nhấn mạnh chuyển đổi xanh không chỉ là một yêu cầu toàn cầu, mà còn là cơ hội để doanh nghiệp Việt Nam tái cấu trúc chiến lược phát triển, giảm thiểu rủi ro, tăng hiệu quả sử dụng năng lượng và mở rộng thị trường quốc tế.

852652da987f14214d6e-1764232867.jpg
Thứ trưởng Bộ Tài chính Nguyễn Đức Tâm

Tuy nhiên, theo Thứ trưởng Nguyễn Đức Tâm cả hai tiến trình chuyển đổi số và chuyển đổi xanh của Việt Nam vẫn gặp nhiều thách thức. Đó là thách thức về thể chế, nguồn lực tài chính, hạ tầng công nghệ và đặc biệt là năng lực nhân sự.

Đáng chú ý, nhiều doanh nghiệp nhỏ và vừa - chiếm tới 97% tổng số doanh nghiệp trong nước - vẫn gặp khó khăn khi tiếp cận nguồn vốn xanh, công nghệ mới hay dữ liệu số.

Chính vì vậy, Bộ Tài chính cùng các bộ, ngành liên quan đang nỗ lực hoàn thiện khung chính sách tài chính để tạo động lực mạnh mẽ hơn cho khu vực tư nhân. Trong đó, tập trung vào triển khai các chính sách ưu đãi thuế, tín dụng ưu tiên và quỹ hỗ trợ đổi mới sáng tạo, đồng thời nghiên cứu cơ chế hợp tác công - tư trong các dự án hạ tầng số và năng lượng tái tạo. Đồng thời, tiếp tục thúc đẩy phát triển thị trường tài chính xanh, thị trường carbon, và công cụ tài chính bền vững.

Từ góc nhìn của UNDP, ông Vũ Thái Trường, Trưởng phòng Biến đổi khí hậu, UNDP Việt Nam đánh giá “bộ tứ Nghị quyết trụ cột” đã tạo nên một nền tảng thể chế rất quan trọng cho giai đoạn phát triển tiếp theo của Việt Nam. Đây không chỉ là các định hướng của Chính phủ, mà còn là tín hiệu mạnh mẽ cho thị trường rằng khu vực tư nhân sẽ đóng vai trò trung tâm trong định hình tăng trưởng xanh và đổi mới mô hình kinh tế.

Bên cạnh đó, Quyết định 21/2025/QĐ-TTg quy định tiêu chí môi trường và việc xác nhận dự án đầu tư thuộc danh mục phân loại xanh là một bước ngoặt giúp doanh nghiệp xác định rõ đâu là hoạt động xanh, tiêu chí để được tiếp cận vốn xanh và các yêu cầu để chứng minh mức độ bền vững của dự án. Việc này không những giảm chi phí tuân thủ, mà còn mở ra cơ hội huy động vốn quốc tế, vốn thường có chi phí thấp hơn. Đây là cơ sở pháp lý quan trọng để doanh nghiệp tư nhân trở thành động lực của tăng trưởng xanh.

Dù vậy, đại diện UNDP cho rằng, thách thức lớn nhất hiện nay là khoảng cách giữa chính sách và thực thi, đặc biệt đối với khối doanh nghiệp vừa và nhỏ (SMEs). Ông lấy ví dụ về công nghệ và kỹ thuật, doanh nghiệp còn hạn chế trong việc áp dụng công nghệ xanh để đáp ứng các tiêu chuẩn môi trường và triển khai mô hình kinh tế tuần hoàn.

Về tài chính doanh nghiệp thiếu nguồn vốn đầu tư cho công nghệ xanh. Về nhân lực, thiếu nhân sự có năng lực chuyên môn về quản trị môi trường. Đồng thời, thiếu các hướng dẫn kỹ thuật chi tiết và dữ liệu cần thiết để thực thi.

“Nhìn chung, chính sách đã rất tiến bộ, nhưng doanh nghiệp và địa phương cần thêm công cụ, dữ liệu và hướng dẫn cụ thể để triển khai”, ông Trường nhấn mạnh.

Với kinh nghiệm từng tư vấn cho các doanh nghiệp, ông Nguyễn Đình Trung, Trưởng phòng cấp cao, Dịch vụ Tư vấn tài chính, PwC Việt Nam nhận thấy vướng mắc của nhiều doanh nghiệp là vẫn cho rằng các yếu tố bền vững, thực hành ESG là tự nguyện chứ không phải bắt buộc nên chú trọng nhiều vào việc chuyển đổi xanh. Hơn nữa, việc chuyển đổi này cũng tốn chi phí hơn nên doanh nghiệp chưa “mặn mà”.

Ngoài ra, khi vượt qua rào cản trên, doanh nghiệp lại gặp khó khăn khác là thiếu nguồn lực kỹ thuật, nhân sự. Chưa kể các doanh nghiệp cũng gặp khó về vấn đề dữ liệu, nhiều doanh nghiệp không biết bắt đầu từ đâu, không biết thu thập thông tin như thế nào để xây dựng nên các báo cáo, kế hoạch về tiến trình chuyển đổi số và chuyển đổi xanh.

Tư duy ESG phải bắt đầu từ giai đoạn phác thảo ý tưởng

Chia sẻ kinh nghiệm về thực hành ESG, ông Lee Leong Seng, Giám đốc Bộ phận Phát triển Bất động sản Nhà ở, Keppel Việt Nam cho biết, việc hiện thực hóa tầm nhìn bền vững luôn đi kèm nhiều thách thức, trong đó, thách thức lớn nhất là làm sao cân bằng giữa giá trị kinh tế và giá trị môi trường.

Theo ông Lee Leong Seng, tư duy ESG phải bắt đầu ngay từ giai đoạn phác thảo ý tưởng. Mọi thiết kế phải đáp ứng các tiêu chuẩn bền vững cơ bản, sau đó được nâng cấp dần trong giai đoạn thiết kế chi tiết và lựa chọn vật liệu. Các giải pháp thiết kế xanh, hài hòa với thiên nhiên thường đòi hỏi chi phí đầu tư ban đầu cao hơn, dẫn đến gia tăng chi phí xây dựng và có thể giá bán sản phẩm cũng sẽ cao hơn. Đa số khách hàng đều ưa chuộng dự án thân thiện môi trường, tuy nhiên một số có thể vẫn e ngại việc trả thêm chi phí cho các dự án này. Đây là thách thức lớn nhất và cần sự chung tay của tất cả các bên liên quan.

“Tôi tin rằng với sự hỗ trợ và dẫn dắt của Chính phủ, nhận thức cộng đồng về lợi ích của sản phẩm xanh sẽ ngày càng được nâng cao. Đồng thời, các cơ chế ưu đãi cũng sẽ góp phần khuyến khích doanh nghiệp áp dụng giải pháp và vật liệu bền vững”, ông Lee Leong Seng nhấn mạnh.

12abae60ddc7519908d6-1764232867.jpg
Ông Lee Leong Seng, Giám đốc Bộ phận Phát triển Bất động sản Nhà ở, Keppel Việt Nam

Đại diện Keppel cho biết thêm, việc Chính phủ Việt Nam tập trung vào phát triển bền vững và mục tiêu Net Zero cũng chính là một trong ba lý do (cùng với định hướng Việt Nam là thị trường cốt lõi của Keppel; tốc độ đô thị hóa nhanh và tầng lớp trung lưu lớn) khiến Keppel xem Việt Nam là một thị trường tăng trưởng trọng điểm và là địa bàn chiến lược trong kế hoạch phát triển đô thị bền vững tại châu Á.

“Khi Việt Nam đẩy nhanh lộ trình hướng đến Net Zero vào năm 2050, Keppel nhìn thấy cơ hội lớn để mang đến các giải pháp và dịch vụ bền vững của chúng tôi tại thị trường này”, ông Lee Leong Seng nói.

Trong khi đó, Larry Lee Chio Lim, Phó Tổng Giám đốc CTCP Bia - Rượu - Nước giải khát Sài Gòn (SABECO) cho biết, SABECO xem tính bền vững là một lợi thế cạnh tranh.

Ông dẫn chứng trên toàn cầu, các công ty đầu tư sớm vào hiệu quả năng lượng sẽ giảm 5-14% chi phí hoạt động. Các quỹ đầu tư bền vững tiếp tục vượt trội so với các quỹ đầu tư truyền thống, với 3.900 tỷ USD tài sản bền vững vào năm 2025. Và tại châu Á - Thái Bình Dương, hơn 60% người tiêu dùng ưa chuộng các thương hiệu mà họ cho là có trách nhiệm với môi trường.

Do đó, công ty đã thiết kế lại mô hình hoạt động xoay quanh năm đòn bẩy liên kết với nhau: giảm thiểu carbon trong năng lượng, sử dụng bao bì tuần hoàn, quản lý nước thải, quản trị ESG và nâng cao khả năng phục hồi của cộng đồng cùng chuỗi cung ứng.

“Tôi tin rằng chương tiếp theo của Việt Nam sẽ được định hình không phải bởi các ngành công nghiệp của quá khứ, mà bởi các công ty đang đón nhận chuyển đổi ngày hôm nay. Với các chính sách, quan hệ đối tác đúng đắn và cam kết chung, Việt Nam không chỉ đạt được quá trình chuyển đổi xanh mà còn sẽ dẫn đầu quá trình này”, ông Larry Lee Chio Lim nhấn mạnh.

Đăng ký đặt báo