
Phát biểu tại Diễn đàn "Thị trường vàng Việt Nam: Thuận lợi và thách thức trong giai đoạn mới”, ngày 24/11, TS. Lê Xuân Nghĩa, thành viên Hội đồng tư vấn chính sách của Thủ tướng lý giải nguyên nhân vì sao vàng tăng giá thời gian qua.
Theo ông Nghĩa, tổng lượng vàng khai thác hàng năm trên thế giới chỉ tăng từ 1,2-1,5%, trong khi cung tiền toàn cầu tăng 3,5-4,5%. “Tiền tăng nhanh hơn vàng thì vàng phải tăng giá, đó là quy luật. Người dân hiểu điều đó nên giữ vàng là chuyện bình thường”, ông Nghĩa nói và cho biết không thể trách người dân và cũng không thể “kêu gọi họ đừng mua vàng”.
Cũng theo TS. Lê Xuân Nghĩa, lượng vàng nhập khẩu chính ngạch vào Việt Nam mỗi năm rất nhỏ, ước tính chỉ khoảng 5 tấn, tương đương hơn 5 tỷ USD. Con số này thấp hơn nhiều so với giá trị nhập khẩu của các mặt hàng tiêu dùng khác. Ông Nghĩa dẫn chứng như hiện mỹ phẩm nhập khẩu hằng năm lên tới 11 tỷ USD, sữa và các chế phẩm từ sữa khoảng gần 5 tỷ USD.
Vấn đề cần đặt ra là tại sao người Việt Nam phải mua vàng với giá cao hơn người Mỹ, người châu Âu, trong khi thu nhập lại thấp hơn nhiều, ông Nghĩa cho rằng chính sự độc quyền trong nhập khẩu vàng miếng đã dẫn tới thị trường méo mó, người dân chịu thiệt.
"Cơ quan quản lý không nhập chính thức người dân buộc phải mua vàng nhập lậu, mua hàng kém chuẩn. Quản lý thị trường không thể chỉ dựa trên tư duy “siết cho chặt” mà bỏ qua quyền lợi người dân", ông Nghĩa nói.
Theo ông Nghĩa, yêu cầu quan trọng nhất hiện nay là cần bỏ độc quyền xuất, nhập khẩu vàng miếng của ngân hàng. Đây là điểm mấu chốt để đảm bảo thị trường minh bạch, giá vàng trong nước tiệm cận thế giới, giảm buôn lậu và bảo vệ quyền lợi chính đáng của người dân.
Cơ chế cấp phép nhập khẩu vàng miếng từ năm 2010 đến nay kéo dài quá lâu và vẫn chưa hoàn thiện. “Nếu để lâu, vàng nhập chính thức và vàng nhập lậu sẽ tiếp tục cạnh tranh trực diện. Người Việt Nam thu nhập thấp lại phải mua vàng đắt hơn người nước ngoài, đó là điều vô lý”, ông Nghĩa nói thêm.
Theo ông Nghĩa, cần sớm mở rộng quyền nhập, xuất khẩu cho nhiều doanh nghiệp đủ điều kiện; Lập sàn vàng vật chất; Công khai giá theo chuẩn thế giới; Kiểm soát buôn lậu bằng nghiệp vụ, chứ không phải bằng siết cung.
“Quota chỉ là giải pháp tình thế. Mục tiêu cuối cùng phải là thị trường minh bạch, công bằng, không để người dân nghèo phải mua vàng với giá đắt hơn người nước ngoài”, ông Nghĩa nêu quan điểm.
Nhiều khó khăn trong công tác quản lý, kiểm soát thị trường vàng
Nói về công tác chống buôn lậu vàng, tại diễn đàn, ông Đặng Văn Đức - Phó Chi cục trưởng Chi cục Điều tra chống buôn lậu (Cục Hải quan Việt Nam) nhận định: vàng luôn hấp dẫn giới buôn lậu vì giá trị cao, dễ sở hữu và có khả năng giữ giá trong bối cảnh biến động như chiến tranh hay lạm phát. Tính thanh khoản quốc tế lớn cùng tâm lý tích trữ vàng lâu đời của người Việt khiến nhu cầu thị trường luôn cao.
Điều kiện địa lý của nước ta với đường biên dài hơn 4.000 km nhưng chỉ có 157 cửa khẩu và 88 điểm kiểm soát khiến nguy cơ buôn lậu vàng luôn hiện hữu. Khi giá trong nước chênh lệch và nhu cầu tăng, rủi ro buôn lậu càng lớn.
Thời gian qua, Cục Hải quan đã triển khai nhiều biện pháp nghiệp vụ và xác định chống buôn lậu vàng là nhiệm vụ trọng tâm. Dù đã phát hiện nhiều vụ việc, nhưng mỗi vụ thường có giá trị lớn, điển hình trên tuyến đường bộ khoảng 10kg. Lượng vàng xử lý có thể cao hơn khi phối hợp với các lực lượng khác.
Bên cạnh đó, lực lượng hải quan cũng tăng cường phối hợp với công an, bộ đội biên phòng, quản lý thị trường, các bộ, ngành, địa phương và đẩy mạnh hợp tác quốc tế để trao đổi thông tin, ngăn chặn buôn lậu từ sớm, từ xa. Cùng với đó, công tác hậu kiểm, giám định hàng hóa, kiểm tra thương mại điện tử cũng được siết chặt.