Kết thúc năm tài chính 2024 (tính đến ngày 31/3/2025), Công ty Honda Việt Nam công bố kết quả kinh doanh khả quan với tổng doanh thu đạt hơn 111.563 tỉ đồng, tăng gần 14% so với cùng kỳ năm trước. Đáng chú ý, lợi nhuận sau thuế đạt 19.772,54 tỉ đồng, tăng 16,8% so với năm 2023, tương đương hơn 2.800 tỉ đồng lãi tăng thêm chỉ sau một năm.
Doanh thu từ mảng xe máy tiếp tục đóng vai trò chủ lực, mang về cho Honda Việt Nam hơn 97.196 tỉ đồng, chiếm khoảng 87% tổng doanh thu. Trong khi đó, mảng ô tô cũng ghi nhận sự tăng trưởng nhẹ với doanh thu vượt 14.367 tỉ đồng, cao hơn gần 1.600 tỉ đồng so với năm trước. Tổng doanh thu thuần sau khi trừ chiết khấu thương mại và hàng bán bị trả lại đạt hơn 111.240 tỉ đồng.
Tổng chi phí giá vốn hàng bán trong năm là hơn 75.897 tỉ đồng, trong đó xe máy chiếm gần 62.360 tỉ đồng, ô tô hơn 13.435 tỉ đồng. Lợi nhuận gộp đạt mức cao, giúp công ty ghi nhận lợi nhuận thuần từ hoạt động kinh doanh lên tới 24.673 tỉ đồng.
Về tài chính, doanh thu từ hoạt động tài chính của công ty giảm nhẹ 8,6% còn 1.399 tỉ đồng. Trong đó, nguồn thu chủ yếu đến từ lãi chênh lệch tỷ giá đã thực hiện (trên 1.100 tỉ đồng), lãi tiền gửi (khoảng 59 tỉ đồng) và phần còn lại từ các khoản lãi chưa thực hiện, lợi nhuận được chia.
Về tài sản, tổng quy mô tài sản của Honda Việt Nam đến cuối năm 2024 đạt hơn 38.196 tỉ đồng, tăng gần 4.600 tỉ đồng so với thời điểm đầu năm. Phần lớn là tài sản ngắn hạn với giá trị lên tới 31.888 tỉ đồng, tương ứng 83,5% tổng tài sản. Trong đó, lượng tiền gửi ngân hàng của công ty tăng mạnh lên mức 21.443 tỉ đồng, cao hơn khoảng 4.300 tỉ đồng so với năm trước.
Khoản phải thu ngắn hạn của khách hàng lên tới 1.819 tỉ đồng, chủ yếu từ các đơn vị liên kết trong hệ sinh thái Honda toàn cầu như Honda Motor Co., Ltd, Asian Honda Motor, Honda Italia, Honda Philippines,… Ngoài ra còn hơn 651 tỉ đồng từ các đại lý và khách hàng khác trong nước.
Về hàng tồn kho, tính đến cuối năm, Honda Việt Nam ghi nhận 7.062 tỉ đồng - tăng gần 243 tỉ đồng so với cùng kỳ. Cơ cấu tồn kho chủ yếu gồm: hàng hoá (2.840 tỉ đồng), thành phẩm (2.247 tỉ đồng), hàng mua đang đi đường (985 tỉ đồng), nguyên vật liệu (715 tỉ đồng) và chi phí sản xuất dở dang.
Đáng lưu ý, lượng hàng tồn kho chậm luân chuyển hoặc khó tiêu thụ tăng mạnh lên 25 tỉ đồng tại thời điểm 31/3/2025, trong khi đầu năm chỉ ở mức 9 tỉ đồng. Điều này phản ánh phần nào áp lực tiêu thụ trong bối cảnh cạnh tranh và nhu cầu có dấu hiệu điều chỉnh sau thời gian tăng trưởng nóng.