Thúc đẩy chế biến sâu để tạo giá trị gia tăng cho cà phê đặc sản

Dù cà phê đặc sản Việt Nam đang có mức giá cao gấp rưỡi đến gấp đôi so với mặt bằng thế giới, phần lớn vẫn được xuất khẩu ở dạng thô, khiến giá trị gia tăng còn hạn chế. Để nâng tầm thương hiệu và gia tăng lợi nhuận cho người trồng, các chuyên gia cho rằng cần đẩy mạnh chế biến sâu, đồng thời phát triển chuỗi giá trị bền vững với sự tham gia chặt chẽ của nông dân, doanh nghiệp, địa phương và các tổ chức tài chính.

Quy mô sản xuất còn nhỏ lẻ, manh mún

Tại Hội thảo "Cà phê Việt Nam: Tăng lợi ích cho người trồng, hỗ trợ doanh nghiệp xuất khẩu" chiều 17/5 tại TP. Hồ Chí Minh, ông Trịnh Đức Minh, Chủ tịch Hiệp hội Cà phê Buôn Ma Thuột, nhận định, Việt Nam đang hội nhập rất tốt vào ngành cà phê toàn cầu. Trong bốn tháng đầu năm nay, kim ngạch xuất khẩu cà phê đạt 3,8 tỷ USD, tăng hơn 51% so với cùng kỳ năm ngoái. Đây là mức tăng trưởng cao nhất trong nhóm các sản phẩm nông nghiệp xuất khẩu của Việt Nam.

z6610701698980-c317cfe6d3c36df5f887f993210c2dec-174746579371894399643-5887-1602-1747528230901-17475282313651677061937-1747630809.webp
Hội thảo "Cà phê Việt Nam: tăng lợi ích cho người trồng, hỗ trợ doanh nghiệp xuất khẩu" tổ chức ngày 17/5 tại TP Hồ Chí Minh.

Sản lượng cà phê cả năm nay ước đạt từ 1,7 đến 1,8 triệu tấn. Với đà tăng trưởng hiện tại, kim ngạch xuất khẩu có thể vượt mốc 6 tỷ USD. Trong bức tranh chung đó, cà phê chế biến sâu, đặc biệt là cà phê đặc sản, đang mở ra hướng đi đầy tiềm năng nhờ giá bán cao vượt trội.

Trên thị trường quốc tế, cà phê đặc sản có giá trung bình từ 300.000 đến 500.000 đồng một kg. Tại Việt Nam, mức giá này thậm chí đã lên đến 600.000 đến 800.000 đồng một kg. Tại phiên đấu giá vào tháng 8/2024, cà phê Arabica trồng ở Hướng Hóa (Quảng Trị) đã được bán với mức kỷ lục 1,2 triệu đồng một kg.

Tuy nhiên, theo chuyên gia thị trường Nguyễn Quang Bình, mặc dù Việt Nam là quốc gia xuất khẩu cà phê lớn thứ hai thế giới, nhưng chưa thể đẩy mạnh chế biến sâu để nâng cao giá trị.

Cụ thể, Việt Nam có khoảng 1,6-1,8 triệu tấn cà phê/năm nhưng đến 90% sản lượng đến từ các hộ nhỏ lẻ, mỗi vườn chỉ sản xuất vài tấn. Rất hiếm trang trại đạt sản lượng 100 tấn trở lên, một con số quá khiêm tốn nếu so với tiêu chuẩn quốc tế về vùng nguyên liệu tập trung.

“Những hộ này thường gặp nhiều rào cản như thiếu vốn, khó tiếp cận tín dụng ngân hàng và gặp trở ngại về chính sách hỗ trợ”, ông Bình cho biết thêm.

Cũng theo ông Bình, sản xuất nhỏ lẻ không chỉ gây khó khăn trong việc áp dụng công nghệ chế biến sâu, mà còn khiến nông dân thiếu khả năng chủ động về vốn, kỹ thuật và dự đoán thị trường. Khi giá cà phê đạt mức 150.000–170.000 đồng/kg, việc thiếu kỹ năng quản trị chi phí khiến nhiều hộ đối mặt với rủi ro thua lỗ, đặc biệt trong những thời điểm giá biến động.

Đồng tình ý kiến, ông Minh cho rằng việc phát triển đại trà cà phê đặc sản hiện vẫn còn nhiều khó khăn. Một trong những nguyên nhân chính là quy mô sản xuất còn nhỏ lẻ, manh mún và phương thức canh tác vẫn mang tính tự phát. Nhiều hộ nông dân vẫn e ngại việc tuân thủ các quy chuẩn sản xuất cần thiết.

Một điểm đáng chú ý là thị trường tiêu thụ nội địa vẫn chưa thực sự phát triển. Hiện tại, chỉ khoảng 5–10% tổng sản lượng cà phê Việt Nam được tiêu thụ trong nước, phần lớn vẫn phụ thuộc vào xuất khẩu. Trong khi đó, nhu cầu nội địa chính là yếu tố then chốt giúp duy trì sự ổn định và gia tăng giá trị sản phẩm.

Cần có sự tham mưu từ hiệp hội và chính quyền địa phương

Ông Bình cho biết, tại Brazil – quốc gia xuất khẩu cà phê lớn nhất thế giới – ngay cả các nông trại nhỏ cũng có diện tích từ 5–10 ha và được chính phủ hỗ trợ mạnh mẽ, giúp nước này duy trì vị thế dẫn đầu.

Từ thực tế đó, ông đề xuất Việt Nam cần nâng hạn mức tín dụng cho nông dân và doanh nghiệp để thúc đẩy sản xuất cà phê bài bản, nhất là cà phê đặc sản.

sczv7wdr-1747630719.jpg
Quy mô sản xuất cà phê còn nhỏ lẻ, manh mún và phương thức canh tác vẫn mang tính tự phát. (Ảnh minh hoạ).

Bên cạnh đó, “nếu muốn tạo ra giá trị gia tăng, cần có sự tham mưu từ hiệp hội và chính quyền địa phương nhằm tập hợp các đầu mối sản xuất, xây dựng hợp tác xã có quy mô tối thiểu 1.000 ha. Khi đó, mới có thể nghĩ đến việc đầu tư hạ tầng, chế biến và nâng tầm thương hiệu”, ông Bình nói.

Đồng quan điểm, ông Nguyễn Tiến Dũng (Simexco Đăk Lăk) nhấn mạnh tầm quan trọng của việc nâng tỷ lệ chế biến sâu lên 40–45% để gia tăng giá trị và định vị thương hiệu cà phê Việt. Ông cho rằng cần sự phối hợp giữa doanh nghiệp, chính quyền địa phương, tổ chức nông dân và các định chế tài chính để phát triển chuỗi giá trị bền vững.

Ở góc độ xúc tiến thương mại, ông Nguyễn Nguyên Phương (Sở Công Thương TP. Hồ Chí Minh) đề xuất Thành phố có thể cùng các hiệp hội tổ chức hội chợ cà phê chuyên ngành nhằm mở rộng thị trường và nâng cao nhận diện thương hiệu.

Ông Phương dẫn ví dụ từ Hàn Quốc, nơi tỉnh Nam Chungcheong dù chỉ chiếm 20% sản lượng nhân sâm nhưng chiếm tới 80% thị phần nhờ chiến lược thương hiệu bài bản. Các doanh nghiệp tại đây còn sáng tạo sản phẩm mới như kết hợp sâm với tổ yến để tăng giá trị. Đây là mô hình mà ngành cà phê Việt Nam có thể học hỏi, vì người tiêu dùng thường ghi nhớ sản phẩm quốc gia (như "sâm Hàn Quốc") hơn là thương hiệu cá nhân.

Để đạt được điều đó, ông Phương nhấn mạnh, ngành cà phê cần có sự liên kết chặt chẽ giữa doanh nghiệp, hiệp hội và chính quyền địa phương. Từ năm 2000, Sở Thương mại (nay là Sở Công Thương) đã thử nghiệm tổ chức hội chợ xuất khẩu tổng hợp. Qua thời gian, mô hình này được điều chỉnh thành các hội chợ chuyên ngành như gỗ, thủ công mỹ nghệ. Hiện các hội chợ này đã được chuyển giao cho hiệp hội ngành hàng quản lý.

Ở góc độ quản lý, ông Nguyễn Văn Hà, Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và Môi trường tỉnh Đắk Lắk, cho rằng, để phát triển ngành cà phê bền vững, cần nâng cao chất lượng sản phẩm, thúc đẩy sản xuất thân thiện với môi trường và ứng dụng công nghệ nhằm giảm thiểu tác động của khí hậu. Đồng thời, tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu và nâng cao năng lực cạnh tranh là hướng đi quan trọng để giữ vững vị thế của cà phê Việt Nam trên thị trường quốc tế.

"Yêu cầu hiện nay là phát triển các sản phẩm cà phê có chứng nhận chất lượng cao, đồng thời thúc đẩy tăng trưởng xanh trong toàn ngành. Cần tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư để thu hút doanh nghiệp trong và ngoài nước tham gia liên kết sản xuất với nông hộ. Ngoài ra, cần ban hành và thực thi các chính sách ưu đãi để khuyến khích phát triển các chuỗi giá trị cà phê chất lượng cao", ông Nguyễn Văn Hà khuyến nghị.

Đăng ký đặt báo