
Nông dân Việt Nam đang ở giai đoạn vừa có những bước tiến rõ rệt, vừa đối mặt nhiều thách thức cần tháo gỡ. Hiện nay, theo các chuyên gia có thể ước tính rằng khoảng một nửa lực lượng nông dân đã đạt đến mức độ “chuyên nghiệp”.
Biểu hiện dễ thấy là trong từng ngành hàng, bà con đã biết tính toán sản xuất theo nhu cầu của thị trường thay vì chỉ làm theo kinh nghiệm.
Ở thủy sản, cách nuôi trồng và tiêu thụ đã bài bản hơn trước. Trong lúa gạo, nhiều hộ lựa chọn giống một cách có chiến lược, rồi ký hợp đồng bán cho doanh nghiệp phù hợp.
Ở cây ăn trái, hơn 50% nông dân đã tính trước đầu ra, chẳng hạn trồng chuối có kế hoạch xuất sang Trung Quốc đúng thời điểm, đồng thời tìm đường mở rộng thị trường khác.
Tuy nhiên, điều khiến giới chuyên gia quan tâm là đến bao giờ nông dân Việt Nam sẽ được chính thức công nhận là “chuyên nghiệp”? Câu trả lời phụ thuộc nhiều vào chính sách và cách nhìn nhận từ cơ quan quản lý.
Bởi hiện nay, dù nông nghiệp vẫn là sinh kế chủ đạo của nông thôn – nơi tập trung khoảng 65% dân số cả nước – nhưng phần lớn nông dân vẫn sản xuất nhỏ lẻ, chưa đủ điều kiện để bước hẳn vào quỹ đạo chuyên nghiệp.

“Thật ra người nông dân chúng ta đa phần đang khu biệt trong một "ốc đảo". Bà con vẫn quen với tư duy "Đèn nhà ai nấy rạng, ruộng nhà ai nấy cày", "Mỗi huyện là một pháo đài, mỗi xã là một pháo đài". Đó chính là cái bẫy. Nền nông nghiệp vẫn còn: manh mún, nhỏ lẻ, tự phát. Nền nông nghiệp vẫn có thể tăng trưởng, phát triển nhưng nếu "lời nguyền" nói trên không được giải quyết thỏa đáng thì rất khó mở ra dư địa, cơ hội phát triển mới”, Phó Chủ tịch Quốc hội, nguyên Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Lê Minh Hoan nhấn mạnh.
Thực trạng quy mô sản xuất cho thấy rõ điều này. Việt Nam hiện có hơn 9,1 triệu hộ nông dân tham gia lĩnh vực nông – lâm – thủy sản, nhưng hầu hết đều ở quy mô nhỏ và phân tán. Đất đai cũng bị chia cắt manh mún: bình quân mỗi hộ sở hữu 2,8 thửa, diện tích mỗi thửa chỉ khoảng 2.026 m² (số liệu năm 2022).
Đặc biệt, tỷ lệ hộ thuần nông ngày càng giảm, thay vào đó là nhiều hộ kiêm nghề hoặc rẽ sang lĩnh vực khác, khiến nền tảng sản xuất nông nghiệp thiếu sự ổn định cần thiết.

Trong bối cảnh biến đổi khí hậu ngày càng khốc liệt, thời tiết cực đoan, lượng phù sa suy giảm, đất đai bạc màu sau những vòng quay canh tác liên tục, mô hình này càng bộc lộ hạn chế. Để duy trì năng suất, không ít nông dân đã lạm dụng thuốc bảo vệ thực vật, khiến nông sản chứa dư lượng hóa chất, làm giảm lòng tin của người tiêu dùng.
Ngoài kỹ thuật sản xuất, nông nghiệp Việt Nam hiện thiếu trầm trọng lực lượng quản trị. Khi chuyển đổi số và chuyển đổi xanh trở thành xu hướng tất yếu, nông dân không chỉ cần được đào tạo kỹ năng canh tác mà còn phải có kiến thức quản lý, điều hành chuỗi sản xuất.
Song để đầu tư vào công nghệ hay mô hình kinh tế tuần hoàn, họ lại vướng phải bài toán vốn. Việc tái sử dụng phụ phẩm nông nghiệp mới dừng ở mức thí điểm, chưa thể nhân rộng thành xu thế.

TS. Lê Đức Thịnh, Cục trưởng Cục Kinh tế hợp tác và Phát triển nông thôn nêu vấn đề: “Tại sao phải đặt vấn đề tri thức hóa nông dân trong lúc này là bởi hiện chất lượng lao động nông nghiệp của chúng ta đang suy giảm. Do hiện tượng già hóa dân số và tình trạng đô thị hóa đã “hút” nguồn nhân lực trẻ, khỏe từ nông thôn ra thành thị, dẫn đến tình trạng lao động ở lại nông thôn chủ yếu là những người trên hoặc dưới độ tuổi lao động”.
Một thực tế khác cũng cần nhìn nhận rõ: Không phải ai đang tham gia sản xuất nông nghiệp cũng thực sự là “nông dân”. Nhiều người vốn chỉ bỏ vốn và thuê người làm, giống như các nhà đầu tư kinh doanh.
Trong khi đó, nông dân đúng nghĩa chính là chủ hộ gia đình, trực tiếp làm nông vụ và coi nông nghiệp là kế sinh nhai chủ yếu.

PGS. TS Vũ Trọng Khải, nguyên Hiệu trưởng Trường Cán bộ Quản lý Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cũng cho rằng: “Lão nông tri điền” đã có công rất nhiều trong việc xây dựng và phát triển nông nghiệp, nông thôn, nhưng thời đại ngày nay đã khác, tư duy cũ, kinh nghiệm cũ, cách làm cũ không thể giúp nông thôn, nông nghiệp tiến xa được. Chẳng hạn, bây giờ chúng ta cần khối lượng hàng hóa nông sản rất lớn và đồng nhất, nhưng “lão nông” khó làm được”.
Ngày nay, mọi việc đã hoàn toàn khác. Biến đổi khí hậu gây ra thời tiết cực đoan, dịch bệnh bất thường. Biến động thị trường do nhiều yếu tố chứ không chỉ do quy luật cung cầu. Biến chuyển xu thế tiêu dùng, từ ăn no sang ăn ngon, ăn để thưởng thức, để tạo dinh dưỡng, đề bồi bổ sức khỏe lành mạnh là những lý do cần có nông dân chuyên nghiệp.

Trong bối cảnh nông nghiệp Việt Nam chuyển mình, người nông dân không còn sản xuất manh mún, nhỏ lẻ mà trở thành nông dân chuyên nghiệp với tư duy mở, kiến thức chuyên sâu, kỹ năng quản trị và kết nối thị trường. Họ theo dõi nhu cầu tiêu dùng, nghiên cứu xu hướng và điều chỉnh sản xuất cho phù hợp.
Theo các chuyên gia, khả năng “đọc” thị trường giúp giảm rủi ro thừa – thiếu sản phẩm, tối ưu hóa lợi nhuận và nâng cao uy tín sản phẩm, hướng nông nghiệp Việt Nam phát triển bền vững và hội nhập quốc tế.
Bên cạnh việc hiểu thị trường, người nông dân chuyên nghiệp còn biết tối ưu hóa chi phí sản xuất và quản lý hiệu quả nguồn lực. Họ áp dụng khoa học kỹ thuật, công nghệ mới và kỹ năng quản trị để giảm giá thành mà vẫn đảm bảo chất lượng sản phẩm.
Việc tối ưu hóa này không chỉ giúp nâng cao lợi nhuận mà còn góp phần bảo vệ môi trường, tránh lãng phí tài nguyên và tạo ra nền nông nghiệp bền vững.
“Giá cả là do quy luật cung - cầu quyết định. Vậy người sản xuất phải nắm cái quy luật vô hình đó, mà làm sao sản xuất cho vừa bảo đảm chất lượng, vừa có giá thành thấp nhất có thể. Muốn giá thành thấp thì phải vừa giảm giá, vừa giảm lượng vật tư đầu vào”, Phó Chủ tịch Quốc hội, nguyên Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Lê Minh Hoan chia sẻ.

Một điểm đặc trưng khác là tư duy kinh tế. Người nông dân chuyên nghiệp không chỉ coi nông nghiệp là sinh kế mà là một nghề thực thụ. Họ tính toán chi phí, lợi nhuận, quản lý nhân lực, thời gian và nguyên vật liệu một cách khoa học.
Trong bối cảnh biến đổi khí hậu, thời tiết cực đoan và áp lực cạnh tranh từ thị trường trong nước lẫn quốc tế, tư duy này giúp nông dân chủ động ứng phó, ra quyết định chính xác và đầu tư hợp lý để phát triển sản xuất lâu dài.
"Nông dân xứ mình luôn cần cù, thậm chí còn tự hào "cần cù bù thông minh". Nhưng ngày nay, nền nông nghiệp thông minh tạo ra giá trị gia tăng vượt bậc. Ngày xưa muốn thăm ruộng, tưới tiêu thì nhất thiết phải ra đồng. Ngày nay chỉ cần một chiếc điện thoại cầm trên tay thì dù ở bất kỳ đâu vẫn kiểm tra được đồng ruộng, vườn tược và điều khiển tưới tiêu. Ngày xưa thu hoạch xong thì chờ thương lái đến mua tận đồng, tận vườn. Ngày nay thì phải phân loại, bảo quản, sơ chế, chế biến ra nhiều sản phẩm có giá trị gia tăng cao. Vậy nông dân phải thông minh, mà muốn thông minh thì phải không ngừng học hỏi. Kiến thức thì vô tận: kiến thức sản xuất, kiến thức ứng dụng khoa học kỹ thuật, công nghệ thông tin, kiến thức kinh doanh”, Phó Chủ tịch Quốc hội, nguyên Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Lê Minh Hoan nhấn mạnh.

Yếu tố quan trọng không kém là khả năng hợp tác và kết nối xã hội. Người nông dân chuyên nghiệp không làm việc đơn lẻ mà chủ động tham gia hợp tác xã, liên kết với doanh nghiệp và các nhà khoa học. Họ học hỏi kinh nghiệm, chia sẻ kiến thức, mở rộng mạng lưới thị trường và tham gia vào toàn bộ chuỗi giá trị nông nghiệp. Năng lực này giúp họ tăng quy mô sản xuất, giảm chi phí, giảm rủi ro và nâng cao vị thế cạnh tranh của sản phẩm.
Cuối cùng, nông dân chuyên nghiệp luôn tuân thủ quy trình sản xuất an toàn, sử dụng thuốc bảo vệ thực vật hợp lý, bảo vệ đất đai và nguồn nước. Nhờ đó, sản phẩm không chỉ sạch, đảm bảo sức khỏe cho người tiêu dùng mà còn nâng cao giá trị nông sản và uy tín thương hiệu Việt trên thị trường.

Điều quan trọng trong bối cảnh hiện nay là làm thế nào để xây dựng được đội ngũ “nông dân chuyên nghiệp”. Muốn vậy, trước hết phải tri thức hóa người nông dân: nâng cao trình độ học vấn, chuyên môn, tay nghề, kỹ năng nghề nghiệp, năng lực quản lý sản xuất – kinh doanh và cả hiểu biết về các vấn đề xã hội.
Phó Chủ tịch Quốc hội, nguyên Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Lê Minh Hoan cho rằng: “Không còn con đường nào khác, phải tri thức hóa người nông dân.”
Theo ông, nhiều quy luật cũ đã không còn phù hợp với sự thay đổi nhanh chóng của thị trường. Nếu trước đây, người tiêu dùng ít lựa chọn thì ngày nay, khi “trăm người bán, vạn người mua”, họ có quyền so sánh, chọn lọc và ngày càng “kén cá chọn canh”.
Vì vậy, nông dân chuyên nghiệp phải biết sản xuất những gì thị trường cần, thay vì làm theo ý mình. Họ vừa có kiến thức và kỹ năng sản xuất, vừa có tư duy kinh tế.

Không chỉ giỏi nghề, nông dân hiện đại còn cần mở rộng quy mô sản xuất. Muốn làm được điều này, họ phải biết hợp tác. Nông dân chuyên nghiệp là người hiểu rõ sức mạnh của liên kết, sẵn sàng tham gia các tổ chức kinh tế tập thể, hợp tác xã để tăng sức cạnh tranh và giảm rủi ro.
Một yếu tố không thể thiếu để hình thành nông dân chuyên nghiệp là cần biết kết nối với nhà khoa học, chuyên gia, doanh nghiệp để tiếp cận tri thức và công nghệ. Quan trọng hơn, tư duy toàn cầu phải dần hình thành: sản phẩm làm ra không chỉ phục vụ thị trường địa phương mà có thể vươn tới những thị trường khó tính nhất.
Khi đó, người nông dân không còn tính chuyện “được mùa bán ngay”, mà phải biết lập kế hoạch dài hạn, hướng tới xuất khẩu bền vững.
Một yếu tố then chốt khác là chính sách hỗ trợ. Đặc biệt, chính sách về đào tạo, đất đai và tài chính phải thực sự phù hợp.
Chẳng hạn, đối với những hộ nông dân hay hợp tác xã tham gia chuỗi giá trị, có hợp đồng tiêu thụ rõ ràng, cần có cơ chế cho vay tín chấp với lãi suất ưu đãi. Hiện nay, nhiều ngân hàng vẫn còn e ngại rủi ro, lo nợ xấu nên chưa mạnh dạn cho vay, khiến nông dân khó tiếp cận vốn.

PGS.TS. Vũ Trọng Khải, nguyên Hiệu trưởng Trường quản lý cán bộ NN 2, TP HCM cũng chỉ rõ: “Muốn trở thành nông dân chuyên nghiệp, cần tích tụ ruộng đất đủ lớn, trong khi kinh tế nông hộ hiện nay chưa làm được. Muốn sống được bằng nông nghiệp phải có ‘nông dân lớn’, và đây là câu chuyện quan trọng liên quan đến chính sách. Điều cần thiết là phải có chính sách riêng cho nông dân chuyên nghiệp.”
Khi hội đủ tri thức, hợp tác, chính sách hỗ trợ và tư duy mở, hình ảnh người nông dân sẽ dần chuyển hóa thành hình ảnh của những “nông dân chuyên nghiệp”. Họ vừa giỏi nghề, am hiểu kỹ thuật; vừa giỏi quản lý, biết tính toán hiệu quả kinh tế; lại vừa giỏi kết nối, tham gia chuỗi giá trị toàn cầu. Đây chính là lực lượng trụ cột để đưa nông nghiệp Việt Nam từ sản xuất nhỏ lẻ, tự cung tự cấp vươn tới nền nông nghiệp hiện đại, hội nhập và có vị thế trên bản đồ thế giới.
Khánh Ly