
Trong 10–20 năm qua, diện tích đất nông nghiệp ở Việt Nam liên tục bị thu hẹp do quá trình đô thị hóa, mở rộng khu công nghiệp, phát triển hạ tầng. Thực trạng này diễn ra ngay cả tại những vùng trọng điểm sản xuất như Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) hay Đồng bằng sông Hồng (ĐBSH) – nơi vốn được coi là “vựa lúa, vựa cá” nuôi sống hàng chục triệu người. Việc mất đi hàng nghìn hecta đất canh tác không chỉ khiến quy mô sản xuất bị thu hẹp mà còn đẩy nông nghiệp vào tình trạng manh mún, khó áp dụng cơ giới hóa, khoa học – kỹ thuật hiện đại.

Không chỉ bị thu hẹp bởi sức ép phát triển kinh tế, đất nông nghiệp còn chịu thêm thách thức từ biến đổi khí hậu. Cây lúa – từng là niềm tự hào quốc gia – nay lại bị coi là ngành phát thải lớn khí nhà kính. Trong khi đó, thị trường quốc tế ngày càng khắt khe, không chỉ đòi hỏi nông sản ngon, sạch mà còn yêu cầu quy trình sản xuất phải xanh và bền vững. Hệ quả là nông dân, hợp tác xã và doanh nghiệp đang phải gánh thêm áp lực vừa duy trì năng suất, vừa đáp ứng chuẩn mực mới.
Một số mô hình sản xuất tích hợp như “con tôm ôm cây lúa” ở miền Tây đã cho thấy hướng đi tích cực khi vừa tận dụng được sự đan xen mặn – ngọt của tự nhiên, vừa tạo ra giá trị kép. Song các chuyên gia cảnh báo, nếu nhân rộng thiếu quy hoạch và kiểm soát môi trường, nguy cơ ô nhiễm, dịch bệnh sẽ bùng phát.Trong bối cảnh dân số Việt Nam vẫn tăng, nhu cầu lương thực, thực phẩm ngày càng lớn, việc đất nông nghiệp bị thu hẹp nhanh chóng tiềm ẩn nguy cơ mất cân đối cung – cầu trong dài hạn. Nếu không có giải pháp căn cơ, một quốc gia từng là cường quốc xuất khẩu gạo hoàn toàn có thể đối diện rủi ro phụ thuộc nhập khẩu lương thực trong tương lai. Đây không chỉ là bài toán kinh tế, mà còn liên quan trực tiếp đến an ninh quốc gia và ổn định xã hội.

Trong bối cảnh dân số Việt Nam vẫn tăng, nhu cầu lương thực, thực phẩm ngày càng lớn, việc đất nông nghiệp bị thu hẹp nhanh chóng tiềm ẩn nguy cơ mất cân đối cung – cầu trong dài hạn. Nếu không có giải pháp căn cơ, một quốc gia từng là cường quốc xuất khẩu gạo hoàn toàn có thể đối diện rủi ro phụ thuộc nhập khẩu lương thực trong tương lai. Đây không chỉ là bài toán kinh tế, mà còn liên quan trực tiếp đến an ninh quốc gia và ổn định xã hội.


Đáng chú ý, tỷ lệ lao động có bằng cấp trong ngành nông nghiệp vẫn rất thấp, chỉ tăng từ 4,1% (2015) lên 6,1% (2025). Trong khi đó, lực lượng lao động trong lĩnh vực này tiếp tục giảm bình quân 142,2 nghìn người/năm, tương đương mức suy giảm 37,2% trong giai đoạn trên. Giáo dục đào tạo ngành nông nghiệp cũng đi xuống khi số người theo học giảm 31,1% trong vòng một thập kỷ.
Nguyên nhân chủ yếu đến từ việc người trẻ rời bỏ nông nghiệp để dịch chuyển sang công nghiệp, dịch vụ – những lĩnh vực có thu nhập ổn định và môi trường làm việc hấp dẫn hơn. Kéo theo đó, độ tuổi trung bình của lao động nông nghiệp ngày càng cao, khiến cơ cấu nhân lực trong ngành mất cân đối.

Hệ quả là phần lớn lao động nông nghiệp, đặc biệt tại các HTX, chủ yếu là lao động phổ thông, tuổi cao, làm việc dựa vào kinh nghiệm và theo thời vụ. Sự thiếu hụt lao động chất lượng cao không chỉ là vấn đề cấp thiết của Việt Nam mà còn là thách thức chung của nhiều quốc gia châu Á. Nhật Bản, Philippines hay Ấn Độ đều đối mặt với tình trạng già hóa lực lượng sản xuất, thiếu hụt lao động trẻ kế cận, buộc phải tìm giải pháp thu hút lao động từ nước ngoài hoặc có chính sách đảm bảo việc làm, trợ cấp cho nông dân.
Không chỉ ảnh hưởng đến hiệu quả sản xuất, sự sụt giảm lao động trẻ còn để lại những hệ lụy xã hội. Nhiều làng quê trở nên trống vắng, thiếu lực lượng kế thừa sản xuất. Việc già hóa lao động làm đứt gãy truyền thống canh tác, thu hẹp sinh hoạt cộng đồng và khiến các vùng nông thôn đối diện nguy cơ suy giảm sức sống.

Đứng trước tình trạng đất nông nghiệp bị thu hẹp, lao động suy giảm và già hóa nhanh chóng, việc tái cấu trúc sản xuất gắn với nâng cao chất lượng nhân lực trở thành yêu cầu cấp thiết để nông nghiệp Việt Nam phát triển bền vững. Dù cơ giới hóa và công nghệ nông nghiệp đã tiến những bước dài với robot dọn cỏ, máy hái quả, hệ thống tưới tiêu thông minh…, nhưng chúng chỉ đóng vai trò hỗ trợ. Nông nghiệp vẫn cần đến bàn tay con người để vận hành, giám sát và đảm bảo các khâu quan trọng như sơ chế, chế biến, phân loại.

Theo bà Cao Xuân Thu Vân, Chủ tịch Liên minh HTX Việt Nam, muốn thu hút nhân lực trẻ, nông nghiệp phải mang lại giá trị thực chất và thu nhập ổn định. Bên cạnh đầu tư công nghệ, đào tạo bài bản cho lao động – từ kỹ thuật sản xuất đến kỹ năng tiếp cận thị trường – là yếu tố then chốt.
Hiện cả nước có khoảng 22.000 hợp tác xã (HTX) nông nghiệp, giữ vai trò trung tâm trong mô hình phát triển bền vững, tương tự như “trang trại cộng đồng” ở Nhật Bản. HTX giúp chia sẻ đất đai, máy móc, tối ưu hóa nguồn lực và quản lý chuỗi giá trị. Trong ngành cà phê, nhiều HTX đã thành công với các sản phẩm phiên bản giới hạn có giá trị gấp 10–20 lần cà phê thường, từ đó thu hút được lao động chất lượng cao.

Kinh nghiệm từ nhiều quốc gia châu Á cho thấy sự kết hợp giữa chính sách nhà nước và mô hình HTX là yếu tố quyết định. Ấn Độ đã ban hành Đạo luật Đảm bảo Việc làm Nông thôn Mahatma Gandhi (MGNREGA), triển khai hỗ trợ thu nhập trực tiếp cho nông dân để giữ chân hàng triệu lao động. Nhật Bản tập trung dồn điền đổi thửa, phát triển trang trại cộng đồng, đồng thời thu hút lao động nước ngoài nhằm bù đắp thiếu hụt nhân lực trong nước.
Đối với Việt Nam, giải pháp không chỉ dừng ở cơ giới hóa mà cần hướng tới nông nghiệp tri thức, nơi nông dân được trang bị kiến thức, kỹ năng và tinh thần khởi nghiệp. Sự phối hợp giữa HTX, doanh nghiệp, nhà khoa học và hỗ trợ quốc tế sẽ giúp ngành thoát khỏi vòng luẩn quẩn “sản xuất nhỏ – năng suất thấp – thu nhập bấp bênh”, tiến tới phát triển hiện đại và bền vững.

Trên bình diện chính sách, Nghị quyết 19-NQ/TW đến năm 2030, tầm nhìn 2045 đặt mục tiêu đưa nông nghiệp phát triển nhanh, bền vững, bảo đảm an ninh lương thực quốc gia và thích ứng biến đổi khí hậu. Sau 3 năm triển khai, nhiều chỉ tiêu đã vượt tiến độ, đặc biệt là tăng trưởng GDP ngành và tỷ lệ che phủ rừng. Nông nghiệp đã chuyển từ tư duy “sản xuất” sang “kinh tế đa giá trị”, gắn nông thôn với công nghiệp chế biến, dịch vụ, du lịch. Hơn 18.700 doanh nghiệp đã đầu tư trực tiếp vào nông nghiệp, hình thành lực lượng nông dân chuyên nghiệp, nhiều người trở thành “đầu tàu” ứng dụng công nghệ, dẫn dắt cộng đồng.
Tuy nhiên, nếu không tháo gỡ kịp thời hai nút thắt lớn về đất đai manh mún và lao động suy giảm, già hóa, lợi thế của nông nghiệp Việt Nam sẽ không thể phát huy trọn vẹn. Đã đến lúc cần những chính sách đột phá về tích tụ ruộng đất, phát triển HTX kiểu mới, cùng cơ chế thu hút và giữ chân lao động trẻ. Chỉ khi đó, mục tiêu tăng trưởng hai con số của ngành nông nghiệp mới trở thành hiện thực.
Nông nghiệp Việt Nam đang có cơ hội lớn để bứt phá, nhất là khi nhu cầu toàn cầu về lương thực, thực phẩm an toàn, xanh và bền vững ngày càng tăng. Tuy nhiên, nếu không tháo gỡ kịp thời hai rào cản về đất đai manh mún và lao động suy giảm, già hóa, lợi thế của nông nghiệp Việt Nam sẽ không thể phát huy hết. Đã đến lúc, những chính sách mang tính đột phá về tích tụ ruộng đất, phát triển hợp tác xã kiểu mới, cùng với chính sách thu hút và giữ chân lao động trẻ phải được triển khai mạnh mẽ, đồng bộ. Chỉ khi đó, mục tiêu tăng trưởng hai con số của ngành nông nghiệp mới trở thành hiện thực./.
Nguyễn Thị Thắm