

Thanh Hóa là tỉnh có truyền thống nông nghiệp lâu đời, nhưng cũng là địa phương sớm nhận ra rằng “tăng trưởng xanh” không thể chỉ là phong trào ngắn hạn, mà phải bắt đầu từ thay đổi căn bản trong tư duy sản xuất. Chủ trương đó được thể hiện rõ trong những quyết sách chiến lược của tỉnh, nổi bật là Quyết định số 3825/QĐ-UBND ngày 11/10/2023 của UBND tỉnh Thanh Hóa về việc ban hành Kế hoạch hành động về tăng trưởng xanh giai đoạn 2021–2030.
Theo quyết định này, Thanh Hóa đặt mục tiêu “phát triển kinh tế-xã hội nhanh và bền vững, cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, phát triển các ngành kinh tế xanh, sử dụng hiệu quả tài nguyên và năng lượng, hướng tới nền kinh tế xanh, trung hòa cacbon”. Không chỉ dừng ở khẩu hiệu, tỉnh yêu cầu “tăng trưởng xanh phải được cụ thể hóa bằng các kế hoạch hành động thiết thực ở từng cấp, từng ngành, vận dụng sáng tạo và phù hợp với điều kiện thực tiễn địa phương”.

Chính tinh thần “xanh từ gốc” trong những văn bản này đã mở đường cho hàng loạt chương trình cụ thể trong nông nghiệp – từ khuyến khích tích tụ đất, phát triển nông nghiệp hữu cơ, công nghệ cao (theo Nghị quyết 192/2019/NQ-HĐND và 185/2021/NQ-HĐND), đến các mô hình tận dụng phụ phẩm nông-lâm-ngư nghiệp, hướng tới giảm phát thải và tuần hoàn tài nguyên.
Theo số liệu thống kê của Sở Nông nghiệp và Môi trường Thanh Hóa, toàn tỉnh hiện có tổng diện tích nuôi trồng thủy sản hơn 19.200 ha, trong đó vùng nuôi tôm nước lợ đạt 4.200 ha, với nhiều mô hình áp dụng tiêu chuẩn VietGAP, nuôi tuần hoàn nước, nuôi sinh thái hữu cơ. Đặc biệt, 2 hợp tác xã được cấp chứng nhận nuôi hữu cơ gồm HTX Dịch vụ Nông nghiệp – Thủy sản Hoằng Phong (286,69 ha) và HTX Dịch vụ và Nuôi trồng thủy sản Quảng Chính (133,28 ha), tổng sản lượng dự kiến gần 125 tấn/năm.
Không chỉ trong nuôi trồng thủy sản, trong lĩnh vực trồng trọt, toàn tỉnh đã có 7 đơn vị được chứng nhận nông nghiệp hữu cơ theo TCVN 11041-2:2017, tổng diện tích hơn 15 ha, cùng với 5.100 ha sản xuất theo hướng hữu cơ và 2.500 ha VietGAP. Những mô hình ấy là minh chứng cho sự thay đổi từ gốc, từ tư duy sản xuất “mạnh ai nấy làm” sang “cùng làm, cùng xanh”. Người nông dân không còn chỉ nhìn vào năng suất, mà đã biết tính đến giá trị lâu dài của đất, của nước, của môi trường.
Ông Nguyễn Xuân Khải, chủ trang trại Nguyễn Xuân Organic Farm tại xã Quý Lộc, là một trong những người tiên phong làm nông nghiệp hữu cơ ở Thanh Hóa. Ông Khải kể, cách đây gần chục năm, khi nhiều người quanh vùng còn chạy theo năng suất, ông lại chọn hướng đi khác, đó là “trồng ít mà xanh thật”.

“Lúc đó ai cũng bảo tôi liều. Bưởi Diễn đang được giá, họ phun thuốc, bón hóa học để quả vàng, vỏ mỏng, bán nhanh. Tôi lại bỏ công làm đất, ủ phân hữu cơ, thả thiên địch, tuyệt đối không dùng thuốc trừ cỏ. Mấy năm đầu sản lượng giảm gần nửa, nhưng giờ đất hồi sinh, cây khỏe, quả bền, giá trị cao gấp đôi”, ông Khải nhớ lại.
Hiện trang trại của ông có diện tích 7 ha, trong đó 70.000 m² bưởi Diễn đã được cấp chứng nhận sản phẩm nông nghiệp hữu cơ theo TCVN 11041-2:2017 do Trung tâm Kiểm nghiệm và Chứng nhận chất lượng TQC xác nhận. Mỗi năm, trang trại cung cấp ra thị trường khoảng 250 tấn bưởi hữu cơ, được phân phối cho các hệ thống siêu thị và đơn vị xuất khẩu.

Nếu “xanh” là thân cây, thì “chính sách” chính là bộ rễ. Ở Thanh Hóa, sự chuyển hướng sang nông nghiệp xanh không chỉ xuất phát từ nỗ lực của người dân, mà còn được “đỡ đầu” bởi một hệ thống chính sách nhất quán, xuyên suốt.
Tỉnh đã ban hành Nghị quyết số 192/2019/NQ-HĐND ngày 16/10/2019 về chính sách tích tụ, tập trung đất đai để phát triển sản xuất quy mô lớn, ứng dụng công nghệ cao; tiếp đó là Nghị quyết số 185/2021/NQ-HĐND ngày 10/12/2021 về phát triển nông nghiệp, nông thôn, nông dân giai đoạn 2022–2025.
Hai nghị quyết này tạo khung pháp lý quan trọng để thúc đẩy sản xuất nông nghiệp xanh, hữu cơ, công nghệ cao, khuyến khích doanh nghiệp và hợp tác xã đầu tư đổi mới công nghệ, liên kết chuỗi giá trị.
Nhờ vậy, xứ Thanh đã hình thành nhiều chuỗi liên kết xanh giữa doanh nghiệp và nông dân. Tiêu biểu như Công ty CP Mía đường Lam Sơn (Lasuco) liên kết với các hộ dân ở Thiệu Hóa và Bỉm Sơn sản xuất – bao tiêu lúa gạo hữu cơ trên diện tích 280 ha; Công ty Nông sản An Thành Phong hợp tác với nông dân ở Nông Cống trồng 200 ha lúa VietGAP; Công ty Phong Cách Mới bao tiêu rau má hữu cơ tại Quảng Xương với quy mô 60 ha...

Các chuỗi liên kết này không chỉ giúp nông dân yên tâm sản xuất, mà còn tạo “vành đai xanh” lan tỏa ra toàn vùng, nơi mỗi hecta đất không chỉ sinh ra sản phẩm, mà còn góp phần làm sạch môi trường, tái tạo hệ sinh thái nông nghiệp.
Nếu nông nghiệp xanh là nền tảng, thì công nghiệp xanh là động lực giúp Thanh Hóa khép kín chuỗi giá trị. Một trong những điểm sáng chính là mô hình tận dụng phụ phẩm nông – lâm nghiệp để sản xuất năng lượng tái tạo và phân bón sinh học.
Tại phường Hải Bình, Công ty Công ty TNHH Văn Lang Yufukuya đầu tư Nhà máy viên nén gỗ với công suất 150.000 tấn/năm. Nguyên liệu đầu vào của nhà máy là phụ phẩm từ cây keo, thân, cành và ngọn – những thứ trước đây bị bỏ phí hoặc đốt bỏ. Giờ đây, chúng được chế biến thành viên nén nhiên liệu sinh học, xuất khẩu sang Nhật Bản, Hàn Quốc và châu Âu, phục vụ các nhà máy nhiệt điện sinh khối.

Ông Lang Văn Tằm, Phó Giám đốc Công ty TNHH Văn Lang Yufukuya, chia sẻ: “Chúng tôi chọn hướng đi xanh không chỉ vì lợi nhuận, mà vì đó là con đường tất yếu. Viên nén gỗ giúp tận dụng triệt để phụ phẩm từ rừng trồng, giảm phát thải hàng chục nghìn tấn CO₂ mỗi năm, đồng thời tạo việc làm ổn định cho hàng trăm lao động địa phương và tăng thu nhập cho người trồng rừng”.
Theo ông Tằm, điều quan trọng hơn cả là thay đổi tư duy sản xuất từ “khai thác rừng” sang “tái tạo tài nguyên”. Nhà máy không chỉ sản xuất nhiên liệu sạch mà còn hướng tới phát triển chuỗi sản xuất tuần hoàn, tận dụng bụi gỗ và mùn cưa để sản xuất phân bón sinh học, khép kín vòng tuần hoàn xanh.

Dù đạt nhiều kết quả tích cực, hành trình xanh của Thanh Hóa vẫn còn không ít thách thức. Tình trạng sử dụng phân bón hóa học và thuốc bảo vệ thực vật vẫn chiếm tỷ lệ cao; trong khi sản xuất hữu cơ đòi hỏi chi phí lớn, thời gian chuyển đổi kéo dài, khiến nhiều hợp tác xã nhỏ gặp khó khăn về vốn và đầu ra sản phẩm. Do đó, để “xanh thật, gốc thật”, cần một hệ sinh thái đồng bộ – nơi chính sách, thị trường, khoa học và người dân cùng tham gia.
Theo TS. Nguyễn Nguyễn Trọng Quyền, Viện Nông nghiệp tỉnh Thanh Hóa, để phát triển xanh thật sự, không thể chỉ dựa vào phong trào hay mô hình điểm. “Thanh Hóa đã đi đúng hướng, nhưng muốn “xanh từ gốc”, phải có hệ sinh thái đồng bộ – nơi chính sách, khoa học, doanh nghiệp và người dân cùng hành động”, ông Quyền nhấn mạnh.

Chuyên gia này cho rằng, thách thức lớn nhất hiện nay là chi phí sản xuất hữu cơ cao, thời gian chuyển đổi dài, trong khi thói quen sử dụng phân bón hóa học và thuốc bảo vệ thực vật vẫn phổ biến. “Muốn xanh bền, cần xanh cả trong tư duy – từ người làm chính sách đến người nông dân”, ông Quyền nói.
Để hành trình xanh của Thanh Hóa đi được đường dài, điều quan trọng không chỉ là đầu tư hay phong trào, mà là xây dựng cơ chế kiểm soát “xanh giả”, khuyến khích “xanh thật” trong toàn chuỗi sản xuất – kinh doanh. Bởi chỉ khi có “gốc thật” – là tư duy tôn trọng tự nhiên, chính sách đúng và minh bạch, cùng niềm tin của người dân vào giá trị xanh – thì màu xanh ấy mới bền lâu, không phai theo mùa vụ hay thị trường.
Từ đồng đất đến chính sách, hành trình xanh của Thanh Hóa không chỉ là sự thay đổi trong cách làm, mà là bước chuyển trong cách nghĩ. Khi mỗi người dân trở thành chủ thể của phát triển bền vững, thì ‘xanh từ gốc’ mới thật sự bén rễ.

Hà Khải