


Nếu như trước đây, 1,2 triệu tấn rơm rạ phát sinh hằng năm ở Thanh Hóa phần lớn bị đốt bỏ, khiến đồng ruộng mịt mù khói bụi và đất chai cứng, thì nay một phần lớn đã được nông dân tận dụng. Rơm được gom về, trộn cùng chế phẩm vi sinh, rỉ mật và nước, sau 30–45 ngày ủ lên men trở thành phân hữu cơ giàu mùn.
“Bón phân hữu cơ, cây lên xanh tốt, đất tơi xốp, lại giảm tới 40% phân hóa học,” ông Lê Xuân Hoằng, nông dân ở xã Ngọc Phụng chia sẻ.

Không chỉ rơm rạ, ở các vùng mía đường, bã mía sau ép được phối trộn với phân chuồng, chế phẩm vi sinh để thành loại phân giàu chất xơ và kali. Thay vì là gánh nặng chất thải công nghiệp, bã mía giờ trở lại nuôi dưỡng đồng ruộng. Một hố ủ tưởng đơn giản, nhưng đã mở ra vòng tuần hoàn mới cho đất đai.
Đặc biệt, phụ phẩm lâm nghiệp cũng đang được tận dụng hiệu quả. Tại phường Hải Bình, Công ty TNHH Văn Lang đầu tư Nhà máy sản xuất viên nén gỗ với công suất 150 nghìn tấn/năm.
Nguyên liệu chính là thân keo và phụ phẩm gỗ. Sản phẩm viên nén không chỉ đáp ứng nhu cầu tiêu thụ trong nước mà còn xuất khẩu, mang lại giá trị kinh tế cao. Đây là một trong những mô hình tiêu biểu cho thấy, những gì từng bị coi là bỏ đi hoàn toàn có thể trở thành nguồn năng lượng xanh, góp phần giảm phát thải.
Theo thống kê của Sở Nông nghiệp và Môi trường, hiện toàn tỉnh đã có 1.614 doanh nghiệp nông nghiệp được thành lập, cùng hàng trăm hợp tác xã (HTX) phát triển mô hình nông nghiệp hữu cơ. Trong đó, nhiều HTX coi mọi phế phụ phẩm là nguyên liệu cho vụ mới.

“Không có gì là rác thải, tất cả đều quay về đất,” ông Lê Đình Trúc, Giám đốc HTX Nông sản Hữu cơ Trúc Phượng, chuyên sản xuất nấm hữu cơ, khẳng định.
Tại xã Thọ Xuân, một nhóm nông dân trẻ đã thử nghiệm tận dụng phụ phẩm từ chăn nuôi như phân gà, phân lợn, kết hợp cùng vỏ trấu để sản xuất phân hữu cơ vi sinh. Mỗi năm, mô hình nhỏ này xử lý được hàng trăm tấn chất thải, vừa giảm ô nhiễm môi trường, vừa cung cấp phân bón sạch cho vùng trồng rau.
“Thay vì chật vật tìm chỗ đổ chất thải, nay chúng tôi có thêm nguồn thu, lại yên tâm vì không lo ô nhiễm,” anh Lê Văn Dương., thành viên nhóm khởi nghiệp cho biết.
Theo TS Nguyễn Trọng Quyền, Trưởng phòng Quản lý Khoa học (Viện Nông nghiệp Thanh Hóa), việc tận dụng phụ phẩm nông - lâm - ngư nghiệp không chỉ giải quyết bài toán rác thải, mà còn mở ra hướng đi kinh tế tuần hoàn quy mô hộ gia đình.
“Một bó rơm, một mẻ bã mía hay một xe phân chuồng nếu được xử lý đúng cách đều trở thành ‘tài nguyên thứ cấp’. Khi những vòng tuần hoàn nhỏ này được nhân rộng, chúng tạo nên sự thay đổi lớn: Đất khỏe, chi phí giảm, thu nhập tăng, môi trường được bảo vệ”. TS Quyền nhận định.

Nếu việc tận dụng phụ phẩm là bước đi cụ thể, thì thay đổi tư duy về canh tác chính là “cuộc cách mạng thầm lặng”. Trong nhiều năm, thói quen lạm dụng thuốc bảo vệ thực vật khiến đất thoái hóa, sâu bệnh kháng thuốc. Nhưng nay, ngày càng nhiều nông dân Thanh Hóa học cách “chung sống” thay vì “diệt trừ tận gốc”.
Ở các cánh đồng rau màu tại phường Đông Sơn, nông dân đã thay dần thuốc hóa học bằng chế phẩm sinh học từ tỏi, ớt, gừng. Họ còn xen canh cây họ đậu để cố định đạm, trồng thêm hoa cúc, húng quế, hương thảo để xua côn trùng. Sự đa dạng sinh học giúp cánh đồng tự cân bằng, ít bùng phát sâu bệnh.

Chị Đào Thị Ngân, trú tại phường Đông Sơn, cho biết: “Chúng tôi sử sụng chế phẩm sinh học để diệt sâu bọ, dù nó không được hiệu quả như thuốc hóa học, sản phẩm có thể có vài vết sâu, nhưng người mua tin tưởng hơn vì an toàn, lại bán được giá cao”.
Theo số liệu thống kê của Sở Nông nghiệp và Môi trường tỉnh Thanh Hóa, tính đến cuối năm 2025, toàn tỉnh hiện có khoảng 801 HTX nông nghiệp, trong đó 195 HTX ứng dụng công nghệ cao, 95 HTX tham gia sản xuất với 116 sản phẩm OCOP được công nhận, và hơn 13 HTX chuyên sản xuất hữu cơ (rau an toàn, mật ong, dược liệu, nấm…). Dù chi phí sản xuất hữu cơ cao, nhưng thị trường ngày càng mở rộng, đặc biệt khi có doanh nghiệp bao tiêu, đầu ra ổn định.
Trong đó, Công ty CP Mía đường Lam Sơn bao tiêu 280 ha lúa gạo hữu cơ tại Thiệu Hóa và Bỉm Sơn; Công ty An Thành Phong sản xuất 200 ha lúa VietGAP ở Nông Cống; Công ty Phong Cách Mới xây dựng chuỗi rau má hữu cơ 60 ha tại Quảng Xương; HTX Hà Lĩnh phát triển mô hình lúa – cá luân phiên hữu cơ với diện tích 35 ha… Mỗi mô hình không chỉ tạo thu nhập mà còn lan tỏa tư duy canh tác bền vững.

Ông Lê Bá Chiều, Phó Tổng Giám đốc phụ trách dự án của Công ty CP Mía đường Lam Sơn (Lasuco), cho biết: “Nông nghiệp xanh với chúng tôi không phải là khẩu hiệu, mà là chiến lược dài hạn. Khi đồng hành cùng nông dân từ khâu canh tác đến tiêu thụ, chúng tôi nhận thấy hiệu quả không chỉ ở sản lượng, mà ở chính sự hồi sinh của đất và niềm tin của người trồng.”
Theo TS Nguyễn Trọng Quyền, Trưởng phòng Quản lý Khoa học (Viện Nông nghiệp Thanh Hóa), mấu chốt của nông nghiệp xanh không chỉ nằm ở kỹ thuật, mà còn ở việc chuyển từ tư duy “phòng trừ” sang “chung sống trong ngưỡng cho phép”. Khi nông dân kiên nhẫn vài vụ để đất và thiên địch phục hồi, họ sẽ thấy hiệu quả rõ rệt: đất khỏe, cây ít bệnh, môi trường an toàn hơn.
Có thể thấy, thành công của nông nghiệp xanh ở Thanh Hóa không nằm ở các dự án lớn, mà từ những sáng kiến nhỏ nhưng hiệu quả như một hố ủ rơm, một chai chế phẩm sinh học từ tỏi - ớt, hay một luống rau trồng xen… Từ những việc tưởng chừng giản dị ấy đã trở thành phong trào để người dân học tập, làm theo, rồi dần nhân rộng.
Trên nền tảng đó, Thanh Hóa xác định phát triển nông nghiệp xanh là định hướng lâu dài. Tỉnh đang tiếp tục ban hành nhiều chính sách nhằm khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp công nghệ cao, mở rộng vùng sản xuất hữu cơ, cải cách thủ tục hành chính để tạo môi trường thuận lợi, đồng thời hình thành thêm các mô hình nông nghiệp tuần hoàn gắn với chuỗi giá trị.
Hành trình xanh ở Thanh Hóa bắt đầu từ những điều bị lãng quên như rơm rạ, bã mía, vỏ keo, lá hỏng, phân chuồng. Khi mỗi người nông dân thay đổi một phần nhỏ trong cách làm, cả cộng đồng sẽ thay đổi một hệ sinh thái. Và từ những “quả thấp” trong tầm tay, một tương lai nông nghiệp bền vững đang dần thành hiện thực./.
Hà Khải