

Đối với Chương trình “Mỗi xã một sản phẩm” (OCOP), quyền sở hữu trí tuệ (SHTT) được xem là “tấm hộ chiếu” giúp đặc sản địa phương vươn xa, khẳng định giá trị và vị thế trên thị trường, đồng thời đóng góp tích cực vào phát triển kinh tế nông thôn bền vững. Các công cụ bảo hộ như chỉ dẫn địa lý, nhãn hiệu tập thể và nhãn hiệu chứng nhận đã trở thành cầu nối chuyển hóa tri thức bản địa, tinh hoa nghề truyền thống và giá trị văn hóa vùng miền thành tài sản kinh tế được pháp luật thừa nhận và bảo vệ.

Chủ trương thúc đẩy phát triển SHTT cho sản phẩm OCOP được triển khai trên cơ sở Nghị quyết số 19-NQ/TW ngày 16/6/2022 về nông nghiệp, nông dân, nông thôn đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045. Thực hiện định hướng này, Bộ Khoa học và Công nghệ đã ban hành Chiến lược SHTT đến năm 2030 và Chương trình phát triển tài sản trí tuệ, tạo hành lang chính sách và công cụ hỗ trợ giúp các sản phẩm OCOP được bảo hộ, quản trị và khai thác giá trị thương mại một cách hiệu quả hơn.

Sau hơn 7 năm triển khai, Chương trình Mỗi xã một sản phẩm (OCOP) đã trở thành điểm sáng trong phát triển kinh tế nông thôn, giúp hàng nghìn sản phẩm “đổi đời” nhờ được chuẩn hóa, nâng cao chất lượng và giá trị thương hiệu.
Theo Bộ Nông nghiệp và Môi trường, hơn 60,7% chủ thể OCOP đạt từ 3 sao trở lên có doanh thu tăng bình quân 17,6%/năm, còn 55,6% sản phẩm có giá bán tăng bình quân 12,2% sau khi được công nhận. Những con số này cho thấy OCOP không chỉ là chương trình hỗ trợ, mà đã trở thành bệ phóng thực sự cho sản phẩm địa phương.

Tính đến nay, cả nước có 17.316 sản phẩm OCOP đạt từ 3 sao trở lên, vượt 1,68 lần chỉ tiêu Thủ tướng Chính phủ giao. Trong đó, nhóm thực phẩm chiếm 78,3%, tiếp đến là thủ công mỹ nghệ (9,1%) và đồ uống (8,3%). Đồng bằng sông Hồng dẫn đầu cả nước với 32,3% sản phẩm, phản ánh thế mạnh về làng nghề và nông sản truyền thống.
Theo bà Nguyễn Kim Nhiên, Giám đốc Công ty chế biến nông sản Trà mãng cầu Kim Nhiên, sản phẩm OCOP không chỉ giúp nâng tầm thương hiệu mà còn mở rộng kênh tiêu thụ. Bà cho rằng nếu chỉ bán trong siêu thị, sản phẩm mới tiếp cận được một nhóm khách hàng nhất định, nhưng khi xuất hiện tại các điểm du lịch, sản phẩm có cơ hội vươn xa hơn ra khắp mọi miền đất nước, thậm chí xuất khẩu. Nhiều du khách sau khi trải nghiệm đã chủ động đặt hàng trực tuyến hoặc trở thành đại lý phân phối, giúp lan tỏa sản phẩm OCOP bền vững hơn.
Các địa phương đã biết khai thác đặc sản bản địa, như chè, dược liệu vùng núi phía Bắc; cà phê, hồ tiêu Tây Nguyên; thủy sản và trái cây nhiệt đới miền Tây Nam Bộ. Nhờ OCOP, sản phẩm nông thôn được nâng tầm giá trị, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế và giữ gìn bản sắc vùng miền.

Tính đến nay, cả nước có 9.345 chủ thể OCOP, trong đó 3.075 hợp tác xã (32,9%), 2.411 doanh nghiệp nhỏ (25,8%), 3.095 hộ sản xuất – kinh doanh (33,1%) và phần còn lại là tổ hợp tác.
Đánh giá về hiệu quả kinh tế sau khi được công nhận, ông Nguyễn Trung Kiên - Giám đốc HTX sản xuất và kinh doanh bưởi Chí Đám khẳng định: “Giá trị kinh tế của sản phẩm bưởi sau khi được đánh giá, xếp hạng OCOP đã tăng từ 20% trở lên so với trước đây, doanh thu từ sản phẩm bưởi cũng tăng 10 - 20%. Nhờ đó, đã có nhiều vườn bưởi đặc sản, bưởi Diễn của các thành viên HTX trồng trên 15 năm, cho thu nhập bình quân 250 - 300 triệu đồng/ha/năm”.
Các sản phẩm OCOP đều đáp ứng tiêu chuẩn chất lượng, an toàn thực phẩm và ngày càng chú trọng yếu tố xanh – bền vững: mẫu mã hiện đại, bao bì thân thiện môi trường, phù hợp thị hiếu người tiêu dùng. Nhờ đó, doanh thu của chủ thể OCOP tăng bình quân 17,6%/năm, còn giá bán sản phẩm tăng trung bình 12,2% sau khi được công nhận.

Đáng chú ý, chương trình đã giúp mở rộng đáng kể các kênh tiêu thụ hiện đại. Hiện 57,9% chủ thể OCOP đã tham gia vào hệ thống siêu thị, cửa hàng tiện lợi hoặc sàn thương mại điện tử, qua đó đưa hàng nghìn sản phẩm địa phương vươn ra thị trường quốc gia, thậm chí xuất khẩu.
Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Trần Thanh Nam cho biết, OCOP đã tạo ra sức lan tỏa lớn, góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn, giữ gìn bản sắc văn hóa và phát huy tri thức bản địa.

Không chỉ tạo cú hích kinh tế, OCOP còn góp phần thay đổi tư duy sản xuất và cải thiện sinh kế cho người dân nông thôn. Giai đoạn 2021–2025, hơn 70.000 lượt cán bộ và chủ thể OCOP đã được đào tạo về quản lý, xây dựng thương hiệu, tiêu chuẩn hóa sản phẩm. Chương trình cũng tạo việc làm mới cho gần 22.000 lao động, trong đó 34,6% chủ thể mở rộng quy mô nhân công.
Đặc biệt, OCOP có tác động tích cực đến các nhóm yếu thế. Khoảng 40% chủ thể OCOP là phụ nữ, riêng tại các vùng miền núi con số này còn cao hơn: 50,6% ở Bắc Trung Bộ, 43,4% ở miền núi phía Bắc và 45,2% ở Tây Nguyên.
Chủ thể là người dân tộc thiểu số chiếm gần 20%, cho thấy OCOP không chỉ là chương trình kinh tế mà còn là chính sách nhân văn, góp phần thu hẹp khoảng cách phát triển vùng miền.

Quan trọng hơn cả, tư duy và năng lực của các chủ thể OCOP đã có bước tiến rõ rệt. Họ chủ động hơn trong tổ chức sản xuất, đầu tư cơ sở hạ tầng, đăng ký sở hữu trí tuệ và xây dựng thương hiệu.
Cách tiếp cận thị trường chuyển từ “bán cái mình có” sang “làm cái thị trường cần”, mở ra hướng đi mới cho nông sản Việt trên hành trình phát triển bền vững. Chương trình OCOP đang khẳng định vị thế như một “cú hích kép”: vừa thúc đẩy kinh tế nông thôn, vừa tạo động lực để người dân đổi mới tư duy làm kinh tế.
Với kết quả vượt chỉ tiêu và sức lan tỏa mạnh mẽ, OCOP tiếp tục là nền tảng quan trọng trong mục tiêu xây dựng nông thôn mới nâng cao, kiểu mẫu của Việt Nam trong giai đoạn tới./.
Nguyễn Thị Thắm - Khánh Ly