
Việt Nam đang đối mặt với áp lực chưa từng có đối với hệ thống lương thực khi biến đổi khí hậu ngày càng gia tăng. Nhiệt độ tăng, hạn hán, xâm nhập mặn và thiên tai khốc liệt đang làm suy giảm năng suất cây trồng, vật nuôi và nuôi trồng thủy sản. Hệ quả là sinh kế của hàng triệu nông dân bị đe dọa, đồng thời rủi ro đối với an ninh lương thực quốc gia cũng gia tăng. Trước tình hình này, phát triển một hệ thống nông-lương thực bền vững, an toàn và công bằng trở thành yếu tố sống còn.

Các chuyên gia từ Đại học RMIT nhấn mạnh rằng, hướng tới an ninh lương thực năm 2050 không chỉ là giảm thất thoát thực phẩm mà cần một cuộc chuyển đổi toàn diện trong phương thức trồng trọt, chế biến và tiếp cận lương thực, đảm bảo lợi ích đồng thời cho con người và môi trường.

TS. Trương Thục Tuyền, Chủ nhiệm bộ môn Công nghệ thực phẩm và Dinh dưỡng tại RMIT Việt Nam, nhấn mạnh: ngành lúa gạo và thủy sản là trụ cột chiến lược, vừa đảm bảo an ninh lương thực, vừa đóng góp xuất khẩu và sinh kế nông thôn. Tuy nhiên, diện tích trồng lúa bị thu hẹp, nguồn nước ngọt khan hiếm, năng suất không ổn định, khiến rủi ro tăng cao. TS. Lê Vi An Tâm, Giảng viên Khoa Kinh doanh RMIT, bổ sung rằng biến đổi khí hậu làm gián đoạn chuỗi cung ứng, gia tăng thất thoát sau thu hoạch và chi phí vận hành, từ đó làm tăng bất bình đẳng trong tiếp cận thực phẩm an toàn và dinh dưỡng.

Những cơn bão, lũ lụt thường xuyên làm hư hại hạ tầng giao thông và trì hoãn vận chuyển hàng hóa dễ hỏng. Chẳng hạn, cơn bão Yagi năm 2024 đã khiến hơn 95.000 người tại 14 tỉnh gặp nguy cơ mất an ninh lương thực. Các doanh nghiệp thực phẩm cũng đang phải vật lộn để duy trì tiêu chuẩn an toàn trước chi phí tăng, xuất hiện mầm bệnh mới và thiếu hụt hạ tầng. Những đơn vị có năng lực thích ứng hạn chế sẽ chịu ảnh hưởng nặng nề nhất.

Theo TS. Tâm, an ninh lương thực Việt Nam đến năm 2050 phụ thuộc vào khả năng chuyển đổi sản xuất lương thực bền vững và hệ thống hóa các giải pháp đổi mới. Ba yếu tố quan trọng bao gồm: phát triển giống cây trồng chịu biến đổi khí hậu; áp dụng canh tác thông minh, ít phát thải và hỗ trợ nông hộ nhỏ; hoàn thiện cơ sở hạ tầng chuỗi cung ứng để giảm thất thoát, nâng cao chất lượng và an toàn thực phẩm.

Trong tương lai, an ninh lương thực không chỉ dừng ở nguồn cung mà còn liên quan đến khả năng tiếp cận, an toàn, chất lượng và sức chống chịu. Công nghệ tiên tiến sẽ là yếu tố then chốt: nông nghiệp chính xác ứng dụng AI, blockchain truy xuất nguồn gốc thực phẩm, phân tích rủi ro khí hậu theo thời gian thực. Các giải pháp mới như thức ăn từ vi tảo, côn trùng hay nông nghiệp tế bào giúp giảm áp lực lên nguồn protein truyền thống, đồng thời hỗ trợ mục tiêu dinh dưỡng và phát triển bền vững.
TS. Tuyền nhấn mạnh: đổi mới không chỉ là tạo ra nhiều thực phẩm hơn mà còn phải nâng cao chất lượng và giá trị dinh dưỡng. Đảm bảo tính công bằng và bao trùm cũng rất quan trọng, nhằm tạo cơ hội tiếp cận công nghệ, kiến thức và quyền ra quyết định cho phụ nữ, thanh niên và nông hộ nhỏ.
Đến năm 2050, an ninh lương thực Việt Nam sẽ không chỉ là tránh thiếu hụt mà còn đảm bảo mọi người dân, ở mọi vùng miền, đều tiếp cận thực phẩm an toàn, giá cả hợp lý và có khả năng chống chịu với biến đổi khí hậu. Viễn cảnh bữa ăn học đường từ nguyên liệu trang trại phát thải thấp hay chợ thành thị bày bán nông sản bền vững đang trở nên khả thi nếu hành động đúng đắn được thực hiện từ hôm nay.
“Điều đáng hy vọng là quá trình chuyển đổi đã bắt đầu. Các sáng kiến gần đây cho thấy Việt Nam không chỉ chờ đợi mà đang hành động. Bước tiếp theo là mở rộng quy mô, tích hợp và thể chế hóa thông qua khoa học, quản trị bao trùm và giáo dục hướng tới phát triển bền vững,” TS. Tuyền nhấn mạnh.
Trần Huyền