
Cứ vào thời điểm đầu tháng 4 hàng năm, những người làm nghề muối (hay còn gọi là diêm dân) lại chuẩn bị cho công việc thu hoạch vụ muối đầu năm. Thế nhưng năm nay, dường như mọi chuyện đã khác. Thời tiết diễn biến thất thường đã khiến việc sản xuất muối của diêm dân gặp nhiều khó khăn.
Tại đồng muối Sa Huỳnh, huyện Đức Phổ (Quảng Ngãi), trời mưa lạnh kéo dài từ đầu năm đã khiến cho kết quả thu hoạch vựa muối không mấy khả quan. Như chia sẻ của ông Nguyễn Văn Tốt (phố Long Thạnh 2, phường Phổ Thạnh), vì tính chất công việc phụ thuộc phần lớn vào điều kiện thời tiết nên người làm nghề rất khó để kiểm soát được năng suất thu hoạch và sản lượng muối, khiến cho giá cả lên xuống bấp bênh, thu nhập không ổn định.
Gắn bó với nghề hơn 30 năm, bà Nguyễn Thị Hồng (phố Long Thạnh 1, phường Phổ Thạnh) cũng đã chia sẻ về những câu chuyện trong nghề. Quá trình làm muối rất phức tạp và vất vả. Mỗi ngày, công việc của diêm dân sẽ bắt đầu từ sáng sớm tinh mơ. Ngay từ lúc 6 giờ sáng, những diêm dân đã bắt đầu công đoạn đầu tiên của công việc làm muối là cuốc đất để làm sân đất nện phơi muối, tạo ra những cánh đồng đều tăm tắp.

Tiếp đó, cát ngâm nước biển sẽ được lấy lên để phơi nắng trên những cánh đồng muối đã được chuẩn bị. Không nghỉ tay, những người dân lại nhanh chóng chuyển sang công đoạn tiếp theo là tưới nước biển lên sân phơi và rắc muối mồi. Khi nước biển bốc hơi, tinh thể muối trắng sẽ được kết tinh.
Tới chiều khi muối đã lên thành hạt, diêm dân phải nhanh chóng hoàn thành phần việc cuối cùng là thu gom muối. Cứ đều đặn mỗi ngày như vậy, họ kiếm sống với công việc luôn phải làm dưới tiết trời nắng gắt.
Mỗi công đoạn để làm ra những hạt muối phải mất rất nhiều thời gian và công sức. Dù “đổ mồ hôi, sôi nước mắt”, nhiều người dân vẫn quyết tâm bám trụ với nghề.
Giữa cái nắng “cháy da, cháy thịt”, những diêm dân vẫn cần mẫn với công việc. Thế nhưng, trời phải nắng thì người dân mới làm được muối. Nếu bất chợt trong ngày có mưa, diêm dân chấp nhận mất trắng mẻ muối của hôm đó.
Mùa thu hoạch muối thường kéo dài trong khoảng thời gian từ tháng 12 dương lịch đến tháng 5 năm sau. Do tính chất công việc chỉ làm được vào mùa khô nên khi vào mùa mưa, những người làm nghề muối phải kiếm công việc khác để có thu nhập.

Tại Festival Muối Nghề muối Việt Nam - Bạc Liêu năm 2025 diễn ra vào tháng 3 vừa qua, Phó Thủ tướng Trần Hồng Hà khẳng định, nghề muối không chỉ là một ngành sản xuất đơn thuần, mà còn là một phần quan trọng trong đời sống văn hóa của dân tộc. Hiện nay, cả nước có 21 tỉnh, thành phố sản xuất muối, với diện tích khoảng 11.400 ha, với 9 vùng sản xuất muối lớn của cả nước, sản lượng trung bình đạt 1 triệu tấn/năm.
Nghề muối đang tạo sinh kế cho hơn 12.000 hộ diêm dân tại các vùng ven biển Việt Nam. Những sản phẩm muối nổi tiếng như muối Đề Gi (Bình Định), muối Sa Huỳnh (Quảng Ngãi), muối Bà Rịa (Bà Rịa - Vũng Tàu), muối Tuyết Diêm (Phú Yên) đã và đang từng bước chinh phục các thị trường khó tính như: châu Âu, Mỹ, Nhật Bản, Hàn Quốc.
Tuy nhiên, nghề làm muối cũng rất bấp bênh; lúc lên lúc xuống như con nước thuỷ triều. Một thống kê của Bộ Nông nghiệp và Môi trường cho thấy, số lượng lao động làm nghề sản xuất muối trong giai đoạn 2017-2020 là khoảng hơn 40 ngàn người, nhưng đến năm 2024 đã giảm còn khoảng 19.000 người.
Hàng năm, thu nhập trung bình của diêm dân vào khoảng 40 triệu đồng/người, chỉ bằng 70% mức thu nhập bình quân đầu người cả nước.

Tháng 3/2025, trong khuôn khổ Festival Muối 2025, Trung tâm Khuyến nông Quốc gia đã phối hợp với UBND tỉnh Bạc Liêu tổ chức Hội thảo “Ứng dụng khoa học công nghệ trong sản xuất muối thích ứng biến đổi khí hậu”. Tại đây, diêm dân đã có cơ hội chia sẻ những khó khăn nghề nghiệp.
Một trong những thách thức lớn nhất đối với người làm muối là việc thời tiết diễn biến thất thường do biến đổi khí hậu, ảnh hưởng trực tiếp tới sản lượng và chất lượng muối. Tuy nhiên, đa phần diêm dân vẫn đang làm muối theo cách thủ công, mất nhiều thời gian, công đoạn mà năng suất chưa cao.
Để gia tăng thu nhập, một số hộ dân cũng đã dần áp dụng khoa học công nghệ vào sản xuất muối nhưng vẫn gặp không ít khó khăn. Diêm dân Trần Việt Trung ở xã Long Điền Đông (huyện Đông Hải, tỉnh Bạc Liêu) chia sẻ, do chưa tiếp cận được nguồn vốn nên nhiều người còn e ngại trong việc đầu tư máy móc thiết bị hiện đại.

Ngoài ra, một số đại biểu cũng cho rằng do thị trường muối không đem lại thu nhập ổn định cho bà con diêm dân, nên lực lượng lao động trong nghề cũng giảm sút đáng kể. Đổi lại những vất vả của người làm muối, số tiền họ kiếm được từ công việc này rất ít ỏi. Do đó, hiện tại cũng chỉ còn những người làm muối lâu năm mới quyết tâm bám trụ với nghề.
Chia sẻ tại Hội thảo “Ứng dụng khoa học công nghệ trong sản xuất muối thích ứng biến đổi khí hậu”, đại diện Trung tâm Khuyến nông Quốc gia cho biết, lĩnh vực diêm nghiệp đã từng bước ứng dụng tiến bộ kỹ thuật, cơ giới hóa vào trong sản xuất. Mặc dù vậy, hầu hết diêm dân vẫn ưu tiên sản xuất theo hướng truyền thống và chủ yếu làm theo kinh nghiệm nên trang thiết bị còn thô sơ, chất lượng không ổn định, muối thường lẫn tạp chất.
Điều này dẫn tới sản phẩm muối có chất lượng chưa cao. Ngoài ra, điều kiện làm việc của diêm dân cũng chưa được cải thiện nhiều.

Ông Lê Đức Thịnh, Cục trưởng Cục Kinh tế hợp tác và Phát triển nông thôn (Bộ Nông nghiệp và Môi trường) cho rằng, nhiều người Việt Nam vẫn đang có sự hiểu lầm về giá trị của muối. Người tiêu dùng quan niệm muối tốt phải là muối trắng có độ tinh khiết cao, còn muối biển có màu vàng thì bị coi là muối chưa sạch, nên giá bán thấp hơn muối tinh khiết.
Trong khi ở thị trường Việt Nam, giá trị của muối thủ công bị đánh giá thấp thì các sản phẩm này lại rất được ưa chuộng tại thị trường nước ngoài và bán được giá cao. Mỗi năm, nước ta xuất khẩu được hàng chục nghìn tấn muối được sản xuất theo phương pháp thủ công với giá thành cao. Muối được làm thủ công công có thành phần khoáng chất phong phú, tốt cho sức khỏe, thứ mà muối tinh khiết không có.
Vào năm 2020, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Đề án phát triển ngành muối giai đoạn 2021-2030, trong đó nhấn mạnh muối là mặt hàng thiết yếu, có vai trò quan trọng trong đảm bảo an ninh lương thực quốc gia.
Theo Đề án, phát triển ngành muối phải phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội chung của cả nước, trong đó nhấn mạnh việc ứng dụng công nghệ, đầu tư nâng cấp cơ sở hạ tầng để tăng năng suất và chất lượng. Từ đó đảm bảo sinh kế, nâng cao thu nhập cho người dân, hướng tới làm giàu bằng muối.

Để đạt được những mục tiêu đã đề ra, Chính phủ đã đưa ra nhiều giải pháp trong thời gian tới. Ngân sách nhà nước sẽ hỗ trợ người dân trong việc đầu tư cơ sở hạ tầng sản xuất muối, hỗ trợ chi phí mua thiết bị vật tư thiết yếu cũng như chi phí đào tạo, tập huấn sử dụng máy móc.
Ngoài ra, Chính phủ cũng khuyến khích các tổ chức, cá nhân sản xuất muối đăng ký vay vốn tín dụng. Nhà nước cũng sẽ có các chính sách để phát triển giá trị sản phẩm muối, mở rộng thị trường tiêu thụ và hướng tới ngành muối bền vững.
Cũng trong đề án, kinh phí dự kiến để phát triển ngành muối đến năm 2030 ước khoảng 2.824 tỷ đồng, trong đó nguồn vốn ngân sách Trung ương ước khoảng 1.940 tỷ đồng (chiếm 68,69%); nguồn vốn ngân sách địa phương ước khoảng 300 tỷ đồng; các nguồn vốn hợp pháp của doanh nghiệp, hợp tác xã và đóng góp của nhân dân, dự kiến khoảng 534 tỷ đồng (chiếm 18,9%).