
Theo Hiệp hội Lương thực Việt Nam, giá gạo xuất khẩu 5% tấm của Việt Nam hiện đạt 388 USD/tấn, cao hơn 10 USD/tấn so với gạo Ấn Độ nhưng vẫn thấp hơn 10 USD/tấn so với gạo cùng loại của Thái Lan. Đối với gạo 25% tấm, Việt Nam đang chào bán ở mức 362 USD/tấn, thấp hơn lần lượt 18 USD và 5 USD/tấn so với Thái Lan và Ấn Độ.Theo Hiệp hội Lương thực Việt Nam, giá gạo xuất khẩu 5% tấm của Việt Nam hiện đạt 388 USD/tấn, cao hơn 10 USD/tấn so với gạo Ấn Độ nhưng vẫn thấp hơn 10 USD/tấn so với gạo cùng loại của Thái Lan. Đối với gạo 25% tấm, Việt Nam đang chào bán ở mức 362 USD/tấn, thấp hơn lần lượt 18 USD và 5 USD/tấn so với Thái Lan và Ấn Độ.

Trong khi đó, thống kê từ Bộ Nông nghiệp và Môi trường cho thấy, dù giảm 18,7%, giá xuất khẩu bình quân gạo của Việt Nam trong 5 tháng đầu năm 2025 vẫn đạt mức khá cao là 516,4 USD/tấn. Giải thích cho sự chênh lệch giữa hai nguồn số liệu, ông Nguyễn Văn Thành, Giám đốc Công ty TNHH Sản xuất - Thương mại Phước Thành IV (Vĩnh Long) cho biết, mức giá do Bộ công bố là giá trung bình giữa các loại gạo thường và gạo chất lượng cao, trong khi Hiệp hội chỉ tính riêng giá gạo thường. “Chẳng hạn, gạo ST25 xuất khẩu sang EU có thể đạt tới 1.200 USD/tấn”, ông dẫn chứng.
Tính đến hết tháng 5/2025, xuất khẩu gạo Việt Nam đạt 4,5 triệu tấn, tương đương 2,34 tỷ USD – tăng 12,2% về sản lượng nhưng giảm 8,9% về giá trị so với cùng kỳ năm trước. Philippines tiếp tục là thị trường lớn nhất, chiếm 41,4% thị phần; theo sau là Bờ Biển Ngà (11,9%) và Trung Quốc (10,3%).
Đáng chú ý, trong nhóm 15 thị trường xuất khẩu gạo lớn nhất của Việt Nam, Bangladesh ghi nhận mức tăng trưởng ngoạn mục về giá trị, gấp hơn 515 lần so với cùng kỳ, trong khi xuất khẩu sang Indonesia lại lao dốc tới 97,9%. Những biến động trái chiều này phản ánh rõ sự thay đổi trong nhu cầu tiêu dùng và điều chỉnh chính sách nhập khẩu của các quốc gia.
Trên phạm vi toàn cầu, Việt Nam tiếp tục duy trì vị trí là nước xuất khẩu gạo lớn thứ hai thế giới, chỉ sau Ấn Độ. Theo dự báo của Bộ Nông nghiệp Hoa Kỳ (USDA), năm 2025, Việt Nam có thể xuất khẩu khoảng 7,9 triệu tấn gạo, vượt xa Thái Lan, nước được dự báo chỉ đạt mức 7 triệu tấn, thấp nhất trong nhiều năm trở lại đây.
Trong báo cáo phân tích mới công bố, USDA nhận định gạo Thái Lan đang mất dần lợi thế cạnh tranh, đặc biệt là tại thị trường Philippines, nơi yếu tố giá cả được người tiêu dùng đặt lên hàng đầu. Sự tăng giá của đồng baht cùng với chi phí sản xuất cao đang khiến giá gạo Thái vượt trội so với gạo Việt. Thêm vào đó, nguồn cung dồi dào từ Ấn Độ và xu hướng tự chủ lương thực tại nhiều quốc gia càng làm gia tăng áp lực cạnh tranh trên thị trường gạo toàn cầu.

Trước áp lực giá cả và cạnh tranh gay gắt, ngành lúa gạo Việt Nam đang thể hiện rõ quyết tâm chuyển đổi theo hướng chất lượng cao. Hiện nay, gạo chất lượng cao chiếm khoảng 60–70% tổng lượng xuất khẩu, gạo cao cấp có thương hiệu chiếm khoảng 15%, còn lại là gạo thường.
Trước bối cảnh thị trường gạo thế giới có nhiều biến động, các doanh nghiệp gạo Việt đang đẩy mạnh thâm nhập vào thị trường ngách. Ông Nguyễn Văn Thành nhận định, Canada, với khoảng 7 triệu người gốc Á là điểm đến tiềm năng khi gạo Việt hiện mới chỉ chiếm dưới 2% thị phần tại đây. Cùng với đó, Singapore, quốc gia nhập khẩu tới 90% nhu cầu lương thực cũng đang trở thành thị trường trọng điểm. Việt Nam hiện là nhà cung cấp gạo lớn thứ ba cho Singapore, sau Ấn Độ và Thái Lan. Xuất khẩu gạo sang quốc đảo này liên tục tăng trưởng, cho thấy khả năng đáp ứng tiêu chuẩn cao của gạo Việt Nam.

Bên cạnh đó, ông Lê Thanh Tùng, Tổng thư ký Hiệp hội Ngành hàng lúa gạo Việt Nam (Vietrisa), cho biết Việt Nam đã chủ động xoay chuyển, đầu tư mạnh vào các dòng gạo cao cấp để thích ứng với bối cảnh mới, phù hợp với đòi hỏi từ nhiều thị trường có tiêu chuẩn nhập khẩu cao.
"Nhật Bản mỗi năm nhập khẩu khoảng 700.000 tấn gạo, chủ yếu từ Hoa Kỳ và Thái Lan. Tuy nhiên, việc thiếu hụt nguồn cung trong năm nay đang mở ra cơ hội vàng cho gạo Việt Nam", Vietrisa nhận định.
Còn theo ông Trương Sỹ Bá, Chủ tịch Tập đoàn Tân Long, cho biết doanh nghiệp đã xuất khẩu gạo mang thương hiệu AAn sang Nhật Bản trong nhiều năm qua. Năm 2024 đạt hơn 5.000 tấn và dự kiến năm 2025 đạt 30.000 tấn. "Nhật Bản là thị trường rất khó tính, đặt ra nhiều tiêu chuẩn cao đối với nông sản nhập khẩu, trong đó có mặt hàng gạo. Xuất khẩu gạo sang Nhật Bản rất khó, nhưng giá bán rất cao, thu về lợi nhuận kinh tế cao”, ông Bá chia sẻ.
Bên cạnh Nhật Bản và Canada, các thị trường như Hàn Quốc và Liên minh châu Âu (EU) đang được kỳ vọng sẽ trở thành điểm đến chiến lược, góp phần nâng tầm giá trị hạt gạo Việt Nam trong thời gian tới.
Chuyên gia nông nghiệp Hoàng Trọng Thủy nhận định, ngành lúa gạo Việt Nam đang có bước chuyển quan trọng khi giảm dần tỷ trọng gạo cấp thấp để ưu tiên phát triển các dòng gạo thơm, gạo chất lượng cao. Đây được xem là hướng đi đúng đắn, giúp gia tăng giá trị xuất khẩu và hạn chế phụ thuộc vào các thị trường dễ biến động.
Tuy nhiên, ông Thủy cũng lưu ý rằng, để chiến lược này phát huy hiệu quả bền vững, ngành lúa gạo cần tiếp tục kiên định với mục tiêu nâng cao chất lượng và xây dựng thương hiệu quốc gia cho các dòng gạo đặc sản. Bên cạnh đó, doanh nghiệp cần chủ động thích ứng với các tiêu chuẩn mới của thị trường quốc tế bằng cách phát triển mô hình sản xuất xanh, sạch, giảm phát thải – xu hướng ngày càng được ưa chuộng tại các thị trường khó tính như EU hay Hàn Quốc.