

Quỹ Phát triển Khoa học và công nghệ của doanh nghiệp được sử dụng để đầu tư tăng cường tiềm lực khoa học và công nghệ cho doanh nghiệp, ngành, lĩnh vực sản xuất, kinh doanh, góp phần nâng cao hiệu quả, sức cạnh tranh. Quỹ cũng được dùng để trang bị cơ sở vật chất, kỹ thuật; mua máy móc, thiết bị kèm theo các đối tượng chuyển giao công nghệ tiên tiến hơn. Đây được xem là một chính sách quan trọng thúc đẩy hoạt động nghiên cứu và phát triển khoa học và công nghệ trong doanh nghiệp.

Chiều 13/5, Quốc hội thảo luận tại hội trường về dự án Luật Khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo. Góp ý về quỹ phát triển khoa học công nghệ của doanh nghiệp, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Dân nguyện và Giám sát của Quốc hội, bà Trần Thị Nhị Hà (đoàn Hà Nội) cho rằng nhiều doanh nghiệp đang lúng túng, thậm chí e ngại khi sử dụng quỹ do chưa rõ đâu là chi phí hợp lệ.
Bà Hà cho biết, theo Nghị định 95/2014/NĐ-CP, doanh nghiệp nhà nước bắt buộc phải trích lập quỹ này với tỷ lệ tối thiểu 3% và tối đa 10% trên thu nhập chịu thuế thu nhập doanh nghiệp. Đối với doanh nghiệp ngoài nhà nước, mức trích lập tối đa là 10%.
Tuy nhiên, theo Nghị quyết 193/2025/QH15, Quốc hội đã cho phép các doanh nghiệp đầu tư vào công nghệ cao được trích lập quỹ lên tới 20% thu nhập tính thuế để tăng vốn cho các dự án. Trong khi đó, dự thảo luật mới lại giới hạn mức trích tối đa chỉ 5%.
Bà Hà cho rằng quy định này không phù hợp với định hướng đổi mới mà Bộ Chính trị và Quốc hội đang theo đuổi.
“Đây chính là rào cản lớn khiến Quỹ Khoa học công nghệ của doanh nghiệp bị đóng băng”, nữ đại biểu đoàn Hà Nội nhìn nhận.

Đồng tình ý kiến, đại biểu Sùng A Lềnh (Đoàn Lào Cai) nêu rõ, Điều 65 dự thảo quy định doanh nghiệp được phép trích tối đa 5% thu nhập tính thuế thu nhập doanh nghiệp để lập Quỹ phát triển khoa học và công nghệ của doanh nghiệp khoản 1 Điều 5, Điều 65. Tuy nhiên, nội dung này chưa hoàn toàn thống nhất với tinh thần của Nghị quyết số 68 của Trung ương về phát triển kinh tế tư nhân trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế.
Theo đó, Nghị quyết 68 cho phép doanh nghiệp được trích tối đa 20% thu nhập tính thuế để lập Quỹ phát triển khoa học công nghệ đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số và nghiên cứu phát triển.
Điểm quan trọng là Nghị quyết số 68 còn mở rộng phạm vi sử dụng quỹ cho phép doanh nghiệp không chỉ triển khai các hoạt động nghiên cứu, phát triển nội bộ mà còn có thể đặt hàng nghiên cứu bên ngoài theo cơ chế khoán sản phẩm, một cách làm linh hoạt, phù hợp với xu thế đổi mới sáng tạo mở hiện nay.
Do đó, đại biểu Sùng A Lềnh đề nghị cơ quan chủ trì soạn thảo nghiên cứu, cân nhắc việc điều chỉnh mức trích lập quỹ từ 5% lên mức cao hơn. Việc nâng tỷ lệ trích lập quỹ không chỉ giúp doanh nghiệp có thêm nguồn lực để đầu tư bài bản, dài hạn và khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo mà còn góp phần hiện thực hóa mục tiêu phát triển doanh nghiệp tư nhân lớn mạnh, bền vững và có khả năng cạnh tranh khu vực và toàn cầu.
Về phía đại biểu Trần Thị Nhị Hà, bà đề nghị cho phép trích lập quỹ phát triển khoa học và công nghệ tối đa là 15% thu nhập tính thuế. Riêng đối với các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực công nghệ cao, công nghệ số, công nghệ chiến lược như chip, AI, dữ liệu lớn, mức tối đa là 20% để tạo dư địa đủ lớn cho đầu tư nghiên cứu, đổi mới sáng tạo.
Đại biểu cũng đề xuất mở rộng danh mục chi từ quỹ như lương cho nhân sự phát triển, nghiên cứu phát triển, thuê chuyên gia mua linh kiện vật tư thử nghiệm, tham dự hội thảo chuyên ngành, mua sắm thiết bị máy móc và các sản phẩm công nghệ phục vụ trực tiếp cho hoạt động nghiên cứu, giao Bộ Khoa học và Công nghệ ban hành danh mục cụ thể và quy định không bắt buộc lập đề tài, nhiệm vụ cho từng khoản chi, tạo thuận lợi cho doanh nghiệp sử dụng quỹ theo nhu cầu thực tế và phục vụ hoạt động đổi mới sáng tạo.

Tại phiên họp, đoàn đại biểu Trần Khánh Thu (Thái Bình) khẳng định việc sửa đổi toàn diện Luật Khoa học và Công nghệ sau hơn một thập kỷ thực thi không chỉ là yêu cầu của thực tiễn phát triển, mà còn là bước đi cần thiết nhằm thể chế hóa tinh thần của Nghị quyết số 57-NQ/TW của Bộ Chính trị.
Liên quan đến các nội dung quy định tại Điều 9 về việc chấp nhận rủi ro trong hoạt động khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo, đại biểu Trần Khánh Thu cho rằng các nội dung về cơ chế chấp nhận rủi ro trong nghiên cứu khoa học công nghệ và hoạt động đổi mới sáng tạo còn chung chung.

Đại biểu Thu phân tích, nghiên cứu khoa học đôi khi có thể dẫn đến cả thành công và thất bại. Đại biểu đặt vấn đề “chấp nhận rủi ro, nhưng rủi ro chấp nhận đến đâu, đến cấp độ nào?”.
Theo đại biểu Thu, các dự án nghiên cứu tính mới, các ý tưởng đổi mới sáng tạo có thể diễn ra ngay trong quá trình sản xuất nên chưa chắc việc thực hiện khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo này có hiệu quả hay không? “Nếu không quy định rõ quy trình, quy định sẽ dẫn đến việc dễ bị hiểu sai và có thể bị lợi dụng gây thất thoát, lãng phí ngân sách nhà nước”, đại biểu lưu ý.
Do đó đề nghị ban soạn thảo bổ sung nguyên tắc tối thiểu về các tiêu chí đánh giá rủi ro khoa học hợp lý; và cần có quy trình thẩm định và phê duyệt rủi ro; đơn vị có thẩm quyền xác định rủi ro rõ ràng trong văn bản hướng dẫn thi hành luật.

Cùng quan tâm tới quy định về chấp nhận rủi ro trong nghiên cứu khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo, đại biểu Nguyễn Thị Việt Nga, đoàn Hải Dương, nêu quan điểm ủng hộ việc luật hóa tinh thần “chấp nhận rủi ro”, vì bản chất của nghiên cứu và đổi mới sáng tạo là chấp nhận thất bại có kiểm soát. Tuy nhiên, theo đại biểu nếu không có cơ chế minh bạch, quy định này dễ bị lạm dụng.
Do đó, đại biểu Việt Nga đề nghị làm rõ ranh giới giữa rủi ro chấp nhận được (ví dụ: sai số mô hình, thất bại thử nghiệm...) và sai phạm không thể miễn trừ (gian lận, đạo đức nghiên cứu yếu kém...); đồng thời thành lập hội đồng đánh giá rủi ro có chuyên môn sâu và độc lập.