
Theo ông Trần Thanh Nam, Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp & Môi trường, thời gian qua, mặc dù phải đối diện với nhiều khó khăn, thách thức như thiên tai, dịch bệnh nhưng ngành nông nghiệp vẫn đạt được một số kết quả đáng khích lệ.

Ông Nam cho biết, ngành nông nghiệp đã chuyển đổi mạnh sang tư duy kinh tế nông nghiệp hiện đại, nâng cao giá trị gia tăng. Từng bước thay đổi từ cách tiếp cận nông nghiệp nâu sang nông nghiệp xanh, tăng cường áp dụng quy trình sản xuất cơ giới hoá đồng bộ trong sản xuất.

Các cơ quan nhà nước đã đưa ra nhiều biện pháp khuyến khích các doanh nghiệp tiếp cận và áp dụng mô hình nông nghiệp xanh. Đơn cử, thời gian qua, ngành nông nghiệp Hà Nội đã tập trung tái cơ cấu sản xuất theo hướng nâng cao chất lượng và giá trị sản phẩm chủ lực, thúc đẩy sản xuất hàng hóa ứng dụng công nghệ cao tại 5 vùng trọng điểm gồm: lúa, rau xanh, chè, cây ăn trái và hoa - cây cảnh. Bên cạnh đó, thành phố đẩy mạnh chương trình OCOP, chuyển đổi số, ứng dụng khoa học - công nghệ hiện đại, và chuyển từ tư duy sản xuất sang tư duy kinh tế gắn với phát triển xanh.
Các mô hình nông nghiệp an toàn, hữu cơ, sinh thái, thông minh đang được triển khai rộng khắp với các tiêu chuẩn quốc tế như GAP, HACCP, ISO, kết hợp truy xuất nguồn gốc và nói “không” với kháng sinh, thuốc bảo vệ thực vật. Nhiều mô hình canh tác xanh đã hình thành tại Sóc Sơn, Phú Xuyên, Thạch Thất, Chương Mỹ, Gia Lâm, Đông Anh, Mê Linh... Không chỉ đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong nước, các sản phẩm còn có tiềm năng xuất khẩu, mang lại giá trị kinh tế cao.

Ngoài ra, Hà Nội cũng phát triển các mô hình nông nghiệp kết hợp du lịch sinh thái, giáo dục trải nghiệm tại các huyện vùng ven như Ba Vì, Sóc Sơn, Đông Anh. Việc ứng dụng công nghệ tưới tiêu tự động, phần mềm dự báo sức khỏe cây trồng, kỹ thuật xử lý chất thải theo hướng sạch - sinh học… đã giúp duy trì mức phát thải thấp, góp phần bảo vệ môi trường và xây dựng nền nông nghiệp bền vững.

Tuy đạt được nhiều kết quả tích cực, mô hình tăng trưởng nông nghiệp của Việt Nam hiện nay đang bộc lộ những hạn chế về chất lượng và tính bền vững. Theo PGS, TS. Đào Thị Ngọc Minh (Trường Đại học Sư phạm Hà Nội), thực tế các mô hình sản xuất nông nghiệp xanh ở nước ta còn nhỏ lẻ, manh mún, nên việc chuyển đổi từ mô hình nông nghiệp truyền thống sang mô hình nông nghiệp mới còn gặp nhiều vướng mắc trong việc áp dụng các công nghệ, kỹ thuật hiện đại với quy mô lớn, đồng bộ.

Đồng tình ý kiến, theo TS. Đỗ Thị Phương Hoa (Trường Đại học Thương mại), mô hình tăng trưởng dựa trên sản lượng và năng suất đã dần tới giới hạn, đồng thời gây ra không ít hệ lụy về môi trường và xã hội.
Theo TS. Hoa, có nhiều nguyên nhân khiến nền nông nghiệp Việt Nam còn nhiều hạn chế cần phải khắc phục trước yêu cầu phát triển nông nghiệp xanh. Thứ nhất, nhận thức và kiến thức của nông dân còn hạn chế. Họ chưa hiểu rõ khái niệm và lợi ích của nông nghiệp xanh, vẫn canh tác theo kinh nghiệm, lạm dụng phân bón, thuốc trừ sâu và chưa áp dụng kỹ thuật hữu cơ hay bảo vệ môi trường hiệu quả.
Thứ hai, kỹ năng và khả năng ứng dụng công nghệ còn yếu. Nông dân chưa quen vận hành công nghệ hiện đại, thiếu thói quen ghi chép sản xuất, chưa quan tâm xây dựng thương hiệu hay kết nối thị trường bền vững.
Thứ ba, khó khăn về tài chính và nguồn lực. Chi phí đầu tư ban đầu cao, trong khi phần lớn nông dân thiếu vốn, canh tác manh mún, sản xuất đơn lẻ nên khó áp dụng công nghệ đồng bộ và hình thành chuỗi giá trị nông nghiệp xanh hiệu quả.


Theo TS. Đỗ Thị Phương Hoa, để nâng cao nhận thức của nông dân về phát triển nông nghiệp xanh, cần thực hiện có hiệu quả công tác tuyên truyền, tập huấn về các nội dung của phát triển nông nghiệp xanh; làm thay đổi nhận thức, qua đó phát huy tính tích cực, chủ động, tự giác, sáng tạo của nông dân trong chuyển đổi sang nông nghiệp xanh, nông nghiệp công nghệ cao và xây dựng nông thôn mới hiện đại, văn minh.
Bên cạnh đó, cần đẩy mạnh đào tạo, tập huấn kỹ thuật cho nông dân thông qua các lớp tập huấn, hội thảo chuyên đề cung cấp kiến thức về nông nghiệp hữu cơ, VietGAP, GlobalGAP, nông nghiệp tuần hoàn, nông nghiệp công nghệ cao; hướng dẫn kỹ thuật sử dụng phân bón hữu cơ, thuốc bảo vệ thực vật an toàn, quản lý nước tưới hiệu quả; phổ biến kỹ năng kiểm soát sâu bệnh hại bằng phương pháp sinh học, hạn chế hóa chất độc hại. Khuyến khích học tập theo mô hình “Nông dân dạy nông dân” để nâng cao hiệu quả tiếp thu.

Ngoài ra, nhà nước cần có chính sách hỗ trợ tài chính và tín dụng ưu đãi cho nông dân học tập (cấp học bổng cho nông dân tham gia các khóa đào tạo về nông nghiệp xanh); cho vay vốn ưu đãi để nông dân đầu tư công nghệ canh tác bền vững. Các trung tâm khuyến nông, trường dạy nghề nông nghiệp cần kết hợp với hội nông dân, hợp tác xã xây dựng các chương trình đào tạo nghề theo nhu cầu của thực tiễn, các chương trình học cần định hướng theo xây dựng chuỗi giá trị sản xuất, theo tiêu chuẩn sạch, bảo đảm đầu ra cho sản phẩm.
Ngoài ra, PGS, TS. Đào Thị Ngọc Minh cũng nhấn mạnh đến vai trò doanh nghiệp và các chủ thể sản xuất, kinh doanh nông nghiệp khác. Bà cho biết, nhiệm vụ này cần đặc biệt chú trọng tới vai trò của doanh nghiệp, hợp tác xã bởi đây là chủ thể trực tham gia gia sản xuất cùng người nông dân, đầu tư vốn cho nông dân sản xuất, liên kết với thị trường để trở thành kênh tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp xanh.

Đồng thời, chỉ khi doanh nghiệp tham gia hợp tác sản xuất, đồng hành cùng người nông dân, thì nông nghiệp xanh mới có cơ hội để phát triển thông qua việc người nông dân sẽ học hỏi kinh nghiệp tổ chức, quản lý của doanh nghiệp, tận dụng được các nguồn lực tài chính của doanh nghiệp để tập trung sản xuất.
Ở góc độ doanh nghiệp, ông Trần Mạnh Báo, Chủ tịch HĐQT ThaiBinh Seed cho rằng, cần chính sách đầu tư mạnh mẽ hơn nữa cho công tác đào tạo nhân lực về khoa học công nghệ, không chỉ cho nhà nước mà cho cả doanh nghiệp và nông dân. "Công nghệ có thể đi mua, nhưng người dùng và vận hành thì cần phải được đào tạo bài bản", ông Báo khẳng định.
