

Năm 2024, Việt Nam khẳng định vị thế trên bản đồ nông nghiệp thế giới khi xuất khẩu nông sản đạt 62,4 tỷ USD, lọt Top 10 quốc gia hàng đầu. Nhiều mặt hàng vươn lên dẫn đầu: gạo xếp thứ ba, cà phê thứ hai, chè thứ năm, trong khi hạt điều và hạt tiêu đứng số một toàn cầu.
Đây là thành quả ấn tượng sau gần 40 năm tiến hành Đổi mới (1986-2025). Một trong những động lực mở đường cho kỳ tích ấy bắt đầu từ năm 1988, khi Nghị quyết 10-NQ/TW của Bộ Chính trị (hay còn gọi là “Khoán 10”) ra đời.
Khoán 10 đã trao quyền tự chủ cho người nông dân, phá bỏ cơ chế quản lý cứng nhắc, tạo nên một cuộc cách mạng trong sản xuất nông nghiệp. Thành công của “Khoán 10” không chỉ nằm ở chính sách đúng, mà ở tư duy cải cách dám đổi mới và thừa nhận những hạn chế của mô hình cũ.

Cụ thể, sau gần 40 năm đổi mới, kinh tế tư nhân Việt Nam đã có những bước phát triển vượt bậc, trở thành một bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, khu vực này vẫn chưa phát triển tương xứng với tiềm năng.
Phần lớn DN có quy mô nhỏ và vừa, hạn chế về vốn, công nghệ, quản trị và năng lực đổi mới sáng tạo. Năng suất lao động và sức cạnh tranh còn thấp, trong khi liên kết với DN nhà nước và FDI còn lỏng lẻo. Tư duy chiến lược dài hạn cũng là điểm yếu cần sớm khắc phục.
Nguyên nhân của những hạn chế này được chỉ ra là do tư duy, nhận thức về vai trò của kinh tế tư nhân chưa đầy đủ và chưa theo kịp yêu cầu phát triển. Thể chế, pháp luật còn nhiều vướng mắc, bất cập, chồng chéo; công tác lãnh đạo, chỉ đạo chưa được quan tâm đúng mức.
Bên cạnh đó, quyền tài sản và quyền tự do kinh doanh chưa được bảo đảm đầy đủ. DN tư nhân vẫn gặp nhiều khó khăn trong tiếp cận các nguồn lực quan trọng như vốn, công nghệ, đất đai, tài nguyên và đặc biệt là nhân lực chất lượng cao. Các chính sách ưu đãi, hỗ trợ chưa thực sự hiệu quả, khó tiếp cận, trong khi chi phí kinh doanh còn cao.


Trước bối cảnh đó, việc đổi mới tư duy và có những giải pháp đột phá để phát huy mạnh mẽ hơn nữa vai trò của kinh tế tư nhân là yêu cầu cấp bách. Ngày 4/5/2025, Tổng Bí thư Tô Lâm vừa ký Nghị quyết số 68-NQ/TW (Nghị quyết 68) của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân. Trong đó, khẳng định kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng nhất của nền kinh tế quốc gia.

Nghị quyết 68-NQ/TW đưa ra 5 quan điểm chỉ đạo chính, thể hiện sự thay đổi mạnh mẽ trong tư duy và nhận thức về vai trò của kinh tế tư nhân.
Thứ nhất, kinh tế tư nhân được coi là động lực quan trọng nhất của nền kinh tế quốc gia, là lực lượng tiên phong thúc đẩy tăng trưởng, đổi mới sáng tạo, công nghiệp hóa, hiện đại hóa và tái cấu trúc nền kinh tế. Cùng với kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân sẽ đóng vai trò nòng cốt trong việc xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, và hội nhập quốc tế hiệu quả.
Thứ hai, phát triển kinh tế tư nhân một cách nhanh chóng, bền vững và hiệu quả là nhiệm vụ cấp bách và chiến lược, cần được cụ thể hóa trong các chính sách và chiến lược phát triển quốc gia để khai thác tối đa tiềm năng và nguồn lực.
Thứ ba, cần xóa bỏ mọi định kiến về kinh tế tư nhân, đánh giá đúng tầm quan trọng của khu vực này. Đồng thời, cần tạo môi trường nuôi dưỡng tinh thần kinh doanh, đổi mới sáng tạo, bảo vệ quyền sở hữu tài sản, tự do kinh doanh, quyền cạnh tranh bình đẳng và củng cố niềm tin giữa Nhà nước và khu vực tư nhân, đảm bảo DN được tiếp cận các nguồn lực một cách công bằng.
Thứ tư, cần tạo ra môi trường kinh doanh thuận lợi, minh bạch, ổn định và chi phí thấp, đạt chuẩn quốc tế. Phải hoàn thiện pháp luật và cơ chế chính sách để khuyến khích sự phát triển của kinh tế tư nhân, đặc biệt trong các lĩnh vực ưu tiên như khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số, khởi nghiệp và làm giàu chính đáng.
Thứ năm, tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng và Nhà nước, với trọng tâm là DN. Cần chú trọng đào tạo đội ngũ doanh nhân có đạo đức, văn hóa kinh doanh và bản lĩnh, trí tuệ, đồng thời phát triển một đội ngũ doanh nhân lớn mạnh, yêu nước và có trách nhiệm xã hội.


Để hiện thực hóa các mục tiêu của Nghị quyết 68, Đảng và Nhà nước đề ra 8 nhóm nhiệm vụ và giải pháp trọng tâm nhằm thúc đẩy mạnh mẽ khu vực kinh tế tư nhân trên nhiều phương diện:
Thứ nhất, đổi mới tư duy và nhận thức về vai trò của kinh tế tư nhân. Nghị quyết nhấn mạnh việc thống nhất nhận thức trong toàn hệ thống chính trị và xã hội, khơi dậy niềm tin, tinh thần dân tộc và khát vọng phát triển. Chính quyền các cấp cần đồng hành, phục vụ DN, tránh mọi hình thức can thiệp hành chính không phù hợp với nguyên tắc thị trường. Đồng thời, tăng cường truyền thông, nghiêm cấm các hành vi nhũng nhiễu, gây cản trở hoạt động kinh doanh.

Thứ hai, tiếp tục cải cách thể chế, bảo vệ quyền sở hữu tài sản và quyền tự do kinh doanh. Môi trường pháp lý cần minh bạch, thông thoáng, chi phí thấp và phù hợp với chuẩn mực quốc tế. Giảm thiểu cơ chế "xin - cho", tăng cường hậu kiểm thay vì tiền kiểm. Đồng thời, xây dựng hành lang pháp lý cho mô hình kinh tế số, đổi mới sáng tạo và hỗ trợ đặc biệt cho DN nhỏ và vừa (DNNVV), nhất là trong tiếp cận thị trường và chính sách thuế, tín dụng.

Thứ ba, tạo điều kiện thuận lợi cho kinh tế tư nhân tiếp cận các nguồn lực như đất đai, vốn, nhân lực. Nghị quyết đưa ra các chính sách kiểm soát giá đất, hoàn thiện dữ liệu đất đai, giảm chi phí thuê đất, phát triển tín dụng xanh, tài trợ chuỗi giá trị và hỗ trợ khởi nghiệp sáng tạo. Bên cạnh đó, cần nâng cao chất lượng đào tạo nhân lực, kết nối giữa giáo dục - DN - thị trường.
Thứ tư, thúc đẩy đổi mới sáng tạo, khoa học công nghệ, chuyển đổi số và chuyển đổi xanh. DN được khuyến khích đầu tư cho R&D, ứng dụng công nghệ mới và được hỗ trợ tài chính thông qua khấu trừ thuế, miễn giảm thuế thu nhập cá nhân cho chuyên gia, tiếp cận cơ sở nghiên cứu của Nhà nước, đồng thời có cơ chế sandbox để thử nghiệm mô hình mới.
Thứ năm, tăng cường kết nối giữa các DN. Xây dựng các chuỗi liên kết theo cụm ngành, thúc đẩy DN lớn dẫn dắt chuỗi giá trị trong nước, hỗ trợ DNNVV về đào tạo, tài chính và tiêu chuẩn quốc tế. Đặc biệt khuyến khích các liên kết giữa DN FDI và DN nội địa.
Thứ sáu, hình thành và phát triển các tập đoàn tư nhân lớn, có khả năng cạnh tranh khu vực và toàn cầu. Tư nhân được tạo điều kiện tham gia các dự án chiến lược quốc gia và đầu tư vào lĩnh vực trọng điểm như hạ tầng, y tế, giáo dục, quốc phòng. Đồng thời triển khai chương trình “Go Global” để hỗ trợ DN vươn ra thị trường quốc tế.
Thứ bảy, hỗ trợ thực chất cho DN nhỏ, siêu nhỏ và hộ kinh doanh. Nhà nước khuyến khích chuyển đổi hộ kinh doanh sang mô hình DN, đơn giản hóa chế độ thuế, kế toán, cung cấp nền tảng số miễn phí và mở rộng tiếp cận tài chính, đặc biệt cho các nhóm yếu thế.
Thứ tám, xây dựng đội ngũ doanh nhân có đạo đức, trách nhiệm xã hội và tinh thần cống hiến. Đưa giáo dục khởi nghiệp vào trường học, tôn vinh doanh nhân có đóng góp cho phát triển bền vững, huy động doanh nhân tham gia phản biện chính sách và quản trị nhà nước, đảm bảo mối quan hệ lành mạnh, minh bạch giữa chính quyền và DN.

Còn theo TS. James Cooper (ĐH RMIT Việt Nam), để nâng cao năng lực cạnh tranh và hội nhập toàn cầu, kinh tế tư nhân Việt Nam cần phát triển mạnh các ngành có tiềm năng lớn như công nghệ thông tin, sản xuất, du lịch và nông nghiệp. Tuy nhiên, yếu tố then chốt là Chính phủ cần tạo ra khung pháp lý thuận lợi để khai thác tối đa tiềm năng khu vực tư nhân.
Du lịch và nông nghiệp là những ngành có cơ hội lớn, nhưng chiến lược phát triển cụ thể phải do doanh nhân quyết định, dựa trên môi trường kinh doanh thông thoáng do Chính phủ tạo ra, ông James Cooper chia sẻ.
