Từ tự cung tự cấp đến hàng cao cấp xuất khẩu
Thanh Hóa hiện có hơn 220.000 ha đất canh tác lúa, sản lượng trung bình mỗi năm đạt trên 1,4 triệu tấn, giữ vai trò trọng yếu bảo đảm an ninh lương thực khu vực Bắc Trung Bộ. Đặc biệt, tỉnh đang chuyển từ tự cung tự cấp sang xuất khẩu: năm 2024, Thanh Hóa đã xuất lô hàng 300 tấn gạo Japonica J02 sang Singapore, đồng thời các doanh nghiệp ký hợp đồng cung ứng lên đến 35.000 tấn cho thị trường Australia và Nhật Bản – những thị trường khó tính bậc nhất.
Song song với mở rộng thị trường, hạ tầng chế biến gạo cũng được nâng cấp. Toàn tỉnh hiện có 8 doanh nghiệp chế biến gạo với công suất 274.600 tấn/năm, trong đó 3 nhà máy quy mô lớn đạt 180.000 tấn/năm. Các sản phẩm phụ từ lúa như sữa gạo lứt, bột gạo dinh dưỡng với công suất 120 triệu hộp/năm đang được khai thác, mở rộng chuỗi giá trị và gia tăng lợi nhuận từ hạt gạo.
Bên cạnh lúa, Thanh Hóa đang phát triển cây mía theo hướng kinh tế tuần hoàn và xanh. Mía là cây trồng truyền thống, từng là “cột trụ” kinh tế của nhiều xã trung du và miền núi. Tuy nhiên, những năm gần đây, ngành mía đường phải đối mặt với cạnh tranh gay gắt, dẫn đến nhà máy mía đường Nông Cống đóng cửa và hàng loạt diện tích mía bị thu hẹp.
Để khôi phục lại vị thế của ngành mía xứ Thanh, Lasuco đã chủ động gắn cây mía với tín chỉ carbon, vừa duy trì giá trị truyền thống, vừa mở ra cơ hội kinh tế bền vững và thân thiện với môi trường. Giải pháp này đồng thời hướng tới chuỗi giá trị tuần hoàn: từ sản xuất đường, cồn sinh học, phát điện từ bã mía đến phân hữu cơ từ phế phụ phẩm, góp phần nâng cao giá trị kinh tế và giảm phát thải carbon trong toàn ngành.
Năm 2025, Lasuco hợp tác cùng Tập đoàn Idemitsu Kosan và Sagri (Nhật Bản) triển khai thí điểm 500 ha mía giảm phát thải carbon theo tiêu chuẩn quốc tế VM0042, hướng tới mở rộng 8.000 ha từ 2026. Dự án áp dụng công nghệ vệ tinh giám sát, hạn chế đốt lá mía và gia tăng phân hữu cơ, ước tính mỗi hécta hấp thụ 3–5 tấn CO₂/năm, tạo nguồn tín chỉ carbon bán trên thị trường quốc tế.
Không chỉ dừng ở carbon, cây mía đang hình thành chuỗi giá trị tuần hoàn: sản xuất đường, cồn sinh học, phát điện từ bã mía, phân hữu cơ từ phế phụ phẩm. Nhờ đó, mía không còn chỉ là cây công nghiệp truyền thống mà trở thành cây kinh tế xanh của tỉnh.
Ông Lê Bá Chiều, Phó Tổng Giám đốc phụ trách các dự án của Nhà máy Mía đường Lam Sơn, cho biết: “Việc gắn tín chỉ carbon vào cây mía không chỉ giúp duy trì và mở rộng diện tích mía truyền thống mà còn tạo cơ hội kinh tế bền vững, góp phần nâng cao giá trị chuỗi sản xuất và giảm phát thải carbon, biến mía thành cây trồng chiến lược của Thanh Hóa.”
Tín chỉ carbon rừng - giá trị kinh tế và môi trường
Thanh Hóa hiện có trên 393.000 ha rừng, độ che phủ đạt 53,5%, thuộc nhóm cao nhất cả nước. Rừng không chỉ phòng hộ, điều hòa khí hậu, mà còn mang lại giá trị kinh tế thực tế thông qua cơ chế bán tín chỉ carbon rừng. Năm 2024, Thanh Hóa đã tham gia Chương trình giảm phát thải vùng Bắc Trung Bộ (ERPA) và thu về gần 200 tỷ đồng từ tín chỉ carbon – nguồn thu giúp hơn 25.398 chủ rừng có thêm sinh kế bền vững.
Trong năm 2025, tỉnh tiếp tục phân bổ 117,7 tỷ đồng từ nguồn ERPA, khẳng định quyết tâm biến rừng thành nguồn lực tài chính xanh. Đây là minh chứng sống động cho cam kết tại Nghị quyết 58-NQ/TW của Bộ Chính trị về phát triển Thanh Hóa đến 2030, tầm nhìn 2045 – trong đó coi nông nghiệp xanh và kinh tế tuần hoàn là trụ cột phát triển.
Đặc biệt, Thanh Hóa có lợi thế phát triển rừng gỗ lớn, rừng phòng hộ ven biển và rừng ngập mặn, những loại rừng hấp thụ carbon hiệu quả. Nếu kết hợp với cơ chế thị trường carbon trong nước (dự kiến vận hành từ 2028 theo Quyết định 896/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ), tỉnh hoàn toàn có thể trở thành trung tâm giao dịch tín chỉ carbon khu vực Bắc Trung Bộ.
Tuy đạt nhiều kết quả tích cực, nông nghiệp Thanh Hóa vẫn đối diện những thách thức không nhỏ. Thiên tai, bão lũ hằng năm gây thiệt hại nặng nề; dịch bệnh trên cây trồng, vật nuôi vẫn tiềm ẩn. Hạ tầng logistics, kho lạnh, chế biến sâu phục vụ xuất khẩu gạo và thủy sản chưa theo kịp yêu cầu. Trong khi đó, cơ chế pháp lý về thị trường carbon còn mới mẻ, tiềm ẩn rủi ro về giá cả và chứng chỉ quốc tế.
Để hiện thực hóa khát vọng, nhiều chuyên gia đề nghị cần có chính sách đột phá: hỗ trợ chứng nhận quốc tế cho tín chỉ carbon, đầu tư mạnh vào logistics nông nghiệp, xây dựng thương hiệu gạo Thanh Hóa gắn chỉ dẫn địa lý, đồng thời nhân rộng mô hình hợp tác xã kiểu mới trong trồng mía và rừng. Những chính sách này nếu triển khai đồng bộ sẽ giúp Thanh Hóa không chỉ bứt phá trong khuôn khổ tỉnh, mà còn đóng góp trực tiếp vào chiến lược an ninh lương thực và tăng trưởng xanh quốc gia.
Những bước đi từ xuất khẩu gạo, gắn cây mía với tín chỉ carbon đến khai thác giá trị từ rừng đã giúp Thanh Hóa trở thành tỉnh tiên phong trong nông nghiệp xanh, tuần hoàn và hội nhập quốc tế. Đây cũng là cách để tỉnh khẳng định vai trò quan trọng trong vùng Bắc Trung Bộ và đóng góp vào chiến lược phát triển nông nghiệp – nông thôn Việt Nam, hướng tới mục tiêu phát thải ròng bằng “0” vào năm 2050./.