Điều 31 của Luật đặc biệt đáng chú ý khi định nghĩa chi tiết các đối tượng phải tham gia BHTN, các trường hợp được miễn trừ cũng như trách nhiệm của người sử dụng lao động.
Theo Điều 31 Luật Việc làm năm 2025, phạm vi người lao động phải tham gia BHTN được xác định như sau:
Hầu hết người làm việc theo hợp đồng, bao gồm hợp đồng lao động không xác định thời hạn và hợp đồng lao động xác định thời hạn từ đủ 1 tháng trở lên; trường hợp hợp đồng có tên gọi khác nhưng thể hiện rõ việc làm có trả công, tiền lương và chịu sự quản lý, điều hành, giám sát của một bên thì vẫn thuộc diện tham gia BHTN.
Người làm việc không trọn thời gian cũng phải tham gia BHTN nếu có tiền lương trong tháng bằng hoặc cao hơn mức tiền lương làm căn cứ đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc thấp nhất theo Luật Bảo hiểm xã hội. Người làm việc theo hợp đồng làm việc trong các đơn vị sự nghiệp công lập cũng thuộc diện tham gia.
Các chức danh quản lý có hưởng lương như người quản lý doanh nghiệp, kiểm soát viên, người đại diện phần vốn của doanh nghiệp; thành viên Hội đồng quản trị, Tổng giám đốc, Giám đốc, thành viên Ban kiểm soát của hợp tác xã hoặc liên hiệp hợp tác xã cũng phải tham gia nếu có hưởng lương.

Luật cũng lưu ý rằng nếu một người lao động đồng thời thuộc nhiều đối tượng tham gia BHTN khác nhau theo quy định, cả người lao động và người sử dụng lao động vẫn có trách nhiệm tham gia BHTN cùng với việc tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc để không bỏ sót quyền lợi.
Bên cạnh đó, Điều 31 cũng nêu rõ các trường hợp không thuộc diện tham gia BHTN, gồm: người lao động đang hưởng lương hưu, trợ cấp bảo hiểm xã hội hoặc trợ cấp hằng tháng theo quy định của Chính phủ, hoặc đã đủ điều kiện hưởng lương hưu; người lao động đang làm việc theo hợp đồng thử việc; người lao động là người giúp việc gia đình.
Ngoài nhóm người lao động bắt buộc phải tham gia BHTN, trách nhiệm tham gia còn thuộc về các tổ chức và cá nhân sử dụng lao động theo đúng quy định. Điều 31 liệt kê đầy đủ: cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp công lập; cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp thuộc Quân đội nhân dân, Công an nhân dân và tổ chức cơ yếu; các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị – xã hội, tổ chức xã hội – nghề nghiệp, tổ chức xã hội khác; cơ quan, tổ chức nước ngoài, tổ chức quốc tế hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam; doanh nghiệp, tổ hợp tác, hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, hộ kinh doanh và các tổ chức, cá nhân khác có thuê mướn, sử dụng lao động theo quy định.
Đáng chú ý, khoản 4 Điều 31 thể hiện định hướng mở rộng chính sách khi quy định Ủy ban Thường vụ Quốc hội sẽ quyết định việc tham gia BHTN đối với các nhóm đối tượng khác ngoài danh sách nêu trên nếu nhóm người đó có việc làm, thu nhập ổn định và thường xuyên, căn cứ trên đề xuất của Chính phủ và phù hợp với điều kiện kinh tế – xã hội từng thời kỳ.
Nhìn tổng thể, những quy định tại Điều 31 Luật Việc làm năm 2025 phản ánh nỗ lực hoàn thiện chính sách an sinh xã hội, đặc biệt là hệ thống bảo hiểm thất nghiệp. Việc làm rõ các loại hợp đồng lao động, kể cả những thỏa thuận có "tên gọi khác", cho thấy quyết tâm bịt kín kẽ hở pháp lý, bảo đảm người lao động được bảo vệ dù làm việc dưới bất cứ hình thức hợp đồng nào. Đồng thời, việc bao phủ cả người làm việc không trọn thời gian và các chức danh quản lý có hưởng lương cũng thể hiện sự thích ứng của chính sách với sự đa dạng của thị trường lao động, giúp mở rộng phạm vi BHTN và tăng cường an ninh thu nhập cho người lao động.