Lênh đênh nghề đan nón lá Trường Giang

Giữa nhịp sống hối hả của thời công nghiệp, ở xã Trường Giang (Thanh Hóa) vẫn còn những đôi tay tảo tần cặm cụi bên khung nón. Ba trăm năm qua, nghề đan nón lá nơi đây đã gắn bó với bao thế hệ, nuôi sống biết bao phận người, để rồi hôm nay, trong cơn lốc hiện đại hóa, nhiều người vẫn chật vật níu giữ lấy hơi thở truyền thống đang dần phai.
non-la-truong-giang-1-1762955312.JPG
Nghề đan nón lá hơn 300 tuổi ở xã Trường Giang vẫn đang chật vật tìm lại chỗ đứng

Làng nghề ba thế kỷ giữa vùng chiêm trũng

Chiều đầu đông, chúng tôi về thôn Đông Hoàng, xã Trường Giang (Thanh Hóa) – nơi được xem là cái nôi của nghề đan nón lá hơn ba thế kỷ. Con đường làng men theo những cánh đồng nước mênh mông, gió lạnh thổi qua khiến không gian như co lại. Giữa làn gió se sắt ấy, tiếng chẻ nan lách cách và tiếng cười nói của người thợ vẫn vang lên, giữ cho làng quê một hơi ấm quen thuộc.

Trong căn nhà nhỏ, ông Lê Văn Lương (65 tuổi), người được xem là hậu duệ đời thứ bảy của ông tổ nghề nón lá Trường Giang tiếp chuyện chúng tôi bằng chén nước chè xanh nóng hổi. Ông kể lại câu chuyện được truyền từ đời cha ông về hành trình lập nghiệp của người mang nghề đan nón về vùng đất này.

non-la-truong-giang-4-1762955423.jpg
Ông Lê Văn Lương (65 tuổi), hậu duệ đời thứ bảy bên nhà nhờ tổ nghề đan nón lá

“Tôi là đời thứ bảy của họ Lê Văn – dòng họ đưa nghề nón về đây. Ông tổ nghề vốn quê ở Thạch Hà, Hà Tĩnh. Vào thế kỷ XVIII, ông cùng hai người em di cư đến vùng này lập nghiệp. Thấy vùng đất trũng, nhiễm mặn, làm ruộng khó khăn, nhưng lại có nhiều lá dừa và người dân chịu thương chịu khó, ông đã dạy nghề làm nón để bà con có kế sinh nhai,” ông Lương kể.

Từ đó, nghề đan nón bén rễ và lớn dần cùng mảnh đất. Với bàn tay khéo léo và sự nhẫn nại, người dân Trường Giang đã tạo nên sản phẩm nón lá không chỉ bền mà còn tinh xảo, đẹp mắt. Nón Trường Giang dần trở thành vật dụng quen thuộc, theo chân người dân trong cuộc mưu sinh, và cũng là niềm tự hào của quê hương.

non-la-truong-giang-7-1762955496.JPG
Cụ bà Nguyễn Thị Chất, một người dâu trong làng với hơn 60 năm tuổi nghề

Ông Lương nhớ lại: “Ngày trước, đói kém mấy thì đói, chứ nhà nào có đôi bàn tay khéo đan nón là vẫn có gạo ăn. Người đi nơi khác lập nghiệp mang nghề theo; người từ vùng khác đến đây sinh sống thì học nghề lại. Cứ thế, nghề như dòng chảy nối từ đời này sang đời khác.”

Ở tuổi 85, bà Nguyễn Thị Chất, một người dâu trong làng, vẫn cặm cụi bên khung nón. Bà cười hiền khi nhắc chuyện xưa: “Tôi về làm dâu ở đây năm mới mười tám tuổi. Mẹ chồng chỉ dạy từng chút một, ban đầu khâu hai vành to, rồi dần dần đến những vòng nhỏ hơn. Khi nào tự tay làm được một chiếc nón hoàn chỉnh thì coi như đã ‘biết nghề’. Cứ thế mà truyền lại cho con, cho cháu.”

non-la-truong-giang-2-1762955564.JPG
Để có được một chiếc nón hoàn hảo cần những đôi bàn tay tỉ mỉ và khéo léo.

Để làm ra một chiếc nón lá, người thợ phải trải qua hàng chục công đoạn: chọn lá, phơi sương nắng, sấy qua lưu huỳnh, là phẳng, làm vành, xếp lá rồi khâu từng mũi chỉ nhỏ. Một người thợ lành nghề mỗi ngày chỉ làm được 3–5 chiếc. Sự tỉ mỉ và kiên nhẫn ấy, nay đã trở thành thứ xa xỉ khi nhịp sống công nghiệp cuốn đi tất cả.

Bấp bênh phận nghề giữa thời công nghiệp hóa

Hơn ba thế kỷ đã trôi qua, nón lá Trường Giang đã trải qua biết bao thăng trầm, gắn liền với những câu chuyện ấm lòng về sự cần cù. Thế nhưng, câu chuyện của ngày hôm nay lại là một nỗi niềm khác. Trước sức ép của công nghiệp hóa và hàng hóa giá rẻ, nghề nón thủ công đang chật vật tìm cách giữ lửa sinh tồn.

non-la-truong-giang-8-1762955631.JPG
Lá để làm nón phải nhập từ Campuchia, giá đã 60 nghìn đồng một ký

Bà Ngô Thị Toan (51 tuổi), người gắn bó hơn 30 năm với nghề, chia sẻ nỗi trăn trở: “Ngày xưa, nhà nào cũng làm nón, giờ chỉ còn vài chục hộ bám trụ. Lá để làm nón phải nhập từ Campuchia, giá đã 60 nghìn đồng một ký. Cộng thêm chỉ, vành, công làm... thì mỗi chiếc nón chỉ lãi được chừng 17–20 nghìn đồng.”

Giá nguyên liệu leo thang, đầu ra bấp bênh đã buộc nhiều người phải rời bỏ nghề. Bà Lê Thị Minh (52 tuổi) thở dài: “Thanh niên thì đi làm công ty hết rồi. Chỉ những người lớn tuổi, không còn sức đi làm thuê được mới ở nhà làm nón. Giờ có máy may khâu nón nhanh hơn, nhưng nón may máy lại không được giá như nón khâu tay. Làm thủ công vẫn đẹp, vẫn bền hơn nhiều.”

non-la-truong-giang-6-1762955706.JPG
Những chiếc nón được khâu bằng tay có giá đắt gần gấp đôi nón may máy

Nghề cũng chịu gánh nặng từ thời tiết. Mỗi năm, từ tháng 7 trở đi, khi trời âm u, nồm ẩm kéo dài, lá phơi không khô, hàng làm ra nhiều mà không bán được. “Cứ đến mùa mưa là cả làng nghỉ. Nón chất đống mà chẳng ai mua, vốn đọng lại,” bà Minh buồn bã nói.

Hiện nay, mỗi chiếc nón bán buôn chỉ có giá từ 25.000 đến 50.000 đồng – một mức giá quá thấp so với công sức tỉ mỉ người thợ bỏ ra. Đây là lý do chính khiến nhiều hộ phải chuyển sang làm thuê hoặc rời vào các khu công nghiệp lân cận.

non-la-truong-giang-3-1762955763.JPG
Nón lá Trường Giang hiện đã có mặt tại nhiều nơi

Nghề xưa giờ chỉ còn “giữ hồn” bởi những bàn tay gầy guộc của các cụ già hoặc những đứa trẻ làm phụ sau giờ học.

“Chúng tôi chỉ mong chính quyền quan tâm, hỗ trợ vốn vay ưu đãi để người dân duy trì sản xuất. Nếu có nơi tiêu thụ ổn định, nghề này chắc chắn vẫn sống được,” bà Toan bày tỏ – một lời thỉnh cầu thiết tha giữa lúc nghề đang đứng bên bờ vực.

Đi dọc con đường nhỏ dẫn ra cánh đồng Trường Giang, không khó để bắt gặp hình ảnh những cụ bà tóc bạc phơ, ngồi lặng lẽ bên khung nón. Đôi tay thoăn thoắt khâu từng đường chỉ, tiếng kim chạm vào nan tre vang khẽ trong không gian tĩnh mịch – thứ âm thanh bình dị mà thân thương đến lạ.

non-la-truong-giang-9-1762955811.JPG
Những chiếc nón có họa tiết được bán với giá 70 nghìn đông

Dù vất vả, họ vẫn không rời bỏ nghề. Với họ, chiếc nón không chỉ là vật dụng che nắng che mưa, mà còn là biểu tượng của quê hương, là sợi dây kết nối quá khứ và hiện tại.

Ông Lương nhìn xa xăm, giọng trầm hơn: “Ngày trước, ai đi đâu xa cũng đội nón. Giờ ít người dùng, nhưng tôi vẫn làm. Làm không phải để giàu, mà để nhớ ơn ông tổ, để con cháu biết quê mình từng có nghề.”

Thực tế, nếu có hướng đi mới, khi kết hợp với du lịch làng nghề, hay sản xuất nón mỹ nghệ phục vụ xuất khẩu, nghề nón Trường Giang hoàn toàn có thể hồi sinh. Chính quyền xã cũng đang đề xuất các chương trình hỗ trợ quảng bá, xây dựng thương hiệu “Nón lá Trường Giang” gắn với sản phẩm OCOP của địa phương.

Hơn 300 năm trôi qua, giữa nhịp sống hiện đại, nghề đan nón lá vẫn chật vật tìm lối đi mới. Nhưng trong từng sợi chỉ, từng đường khâu của những người thợ già, vẫn ánh lên ngọn lửa nghề – thứ lửa cháy âm ỉ mà bền bỉ, như chính tinh thần của người dân Trường Giang, chịu thương, chịu khó, không buông bỏ truyền thống./.

Đăng ký đặt báo