3 kịch bản có thể xảy ra sau khi hoàn thành đàm phán thuế quan với Mỹ
Tại hội thảo với chủ đề "Kinh tế thế giới và Việt Nam 2025 - 2026 trong bối cảnh thuế quan mới của Mỹ: Tác động và giải pháp đối với doanh nghiệp Việt" diễn ra ngày 10/5, TS. Cấn Văn Lực, Thành viên Hội đồng Tư vấn chính sách của Thủ tướng đã đưa ra 3 kịch bản có thể xảy ra trong năm 2025 sau khi hoàn thành đàm phán thuế quan với Mỹ.
Với kịch bản cơ sở, ông Lực cho rằng xác suất xảy ra có thể đạt 60%, là kịch bản mức thuế đối ứng Mỹ áp với hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam còn 20-25%. Phương án này có hiệu lực từ 9/7/2025 và kéo dài trong 1 năm hoặc sớm hơn, sau đó tiếp tục đàm phán giảm mức thuế về thấp hơn.
Đối với kịch bản này, xuất khẩu có thể giảm 1,2-1,5 % so với kịch bản thông thường, tương ứng giảm 6-7,5 tỷ USD; nguồn vốn FDI cũng giảm 3-5%. Khi đó chỉ số giá tiêu dùng ở mức 4 - 4,5% và tăng trưởng GDP năm 2025 được dự báo là 6,5-7%.
Kịch bản thứ 2 tích cực hơn là Việt Nam chỉ bị áp thuế 10% đối với hàng hóa xuất khẩu sang Mỹ, tương tự 126 quốc gia khác. Với kịch bản này, ông Lực cho rằng xác suất thỏa thuận có thể đạt được chỉ khoảng 20%. Nhưng nếu phương án này khả thi thì sẽ là một bức tranh khởi sắc.
Khi đó, tình hình xuất khẩu và nguồn vốn FDI thực hiện đều không bị ảnh hưởng đáng kể. Đồng nghĩa với việc tăng trưởng GDP có thể đạt mức kỳ vọng theo kế hoạch đặt ra là 7,5-8%, lạm phát được kiểm soát tốt.
Kịch bản tiêu cực nhất là Mỹ sẽ giữ nguyên mức thuế đối ứng 46% đối với hàng hóa xuất khẩu từ Việt Nam và áp dụng từ 9/7 tới. Với kịch bản này, TS. Cấn Văn Lực cho rằng hàng Việt Nam có thể sẽ phải cạnh tranh với một loạt quốc gia có mức thuế đối ứng thấp hơn, xuất khẩu ảnh hưởng nặng nề nhất và có thể giảm tới 5,5-6% so với kịch bản thông thường, tương ứng giảm 22-24 tỷ USD.
Vốn FDI thực hiện dự kiến cũng sẽ giảm 6-8%. Khi đó, tăng trưởng GDP năm nay chỉ đạt 5,5 - 6%, lạm phát trong khoảng 5%.
Các ngành ảnh hưởng nặng nề nhất là máy vi tính, linh kiện và các thiết bị điện tử; hàng thủy sản; sản phẩm từ chất dẻo… Và nếu mức thuế đối ứng không giảm thì năm 2026, tác động tiêu cực sẽ nhiều hơn, vì thời gian dài hơn.
Ba kịch bản mà TS. Cấn Văn Lực đưa ra đều phản ánh những tình huống có thể xảy ra đối với nền kinh tế Việt Nam trong bối cảnh thay đổi chính sách thuế của Mỹ.
Đa dạng hóa thị trường và chuỗi cung ứng, chuyển đổi số và xanh hóa
Tại Hội thảo, TS. Cấn Văn Lực nhấn mạnh rằng thuế quan Mỹ không chỉ đặt ra thách thức mà còn mở ra cơ hội cho doanh nghiệp Việt Nam. Đây là thời điểm quan trọng để các doanh nghiệp đa dạng hóa thị trường, địa phương hóa sản xuất và tăng cường năng lực nội sinh nhằm thích ứng với bối cảnh quốc tế thay đổi.
Theo TS. Lực, để vượt qua khó khăn và nắm bắt cơ hội, doanh nghiệp Việt Nam cần triển khai đồng bộ các giải pháp thiết thực. Trước hết, việc tận dụng các chính sách hỗ trợ của Chính phủ về thuế, phí và lãi suất là điều quan trọng. Bên cạnh đó, doanh nghiệp cần ứng dụng công nghệ thông tin nhằm tối ưu hóa quy trình, cắt giảm chi phí và nâng cao hiệu quả sản xuất.
Bên cạnh tối ưu hóa, chuyển đổi số và xanh hóa là xu hướng tất yếu. Việc xây dựng chiến lược dài hạn và áp dụng các tiêu chuẩn ESG (Môi trường, Xã hội, Quản trị) sẽ giúp doanh nghiệp tăng cường tính bền vững. Đầu tư vào công nghệ mới không chỉ giúp nâng cao hiệu suất mà còn đáp ứng các yêu cầu khắt khe về môi trường từ các thị trường quốc tế.
Một trong những định hướng quan trọng được nhấn mạnh là đa dạng hóa thị trường và chuỗi cung ứng. Trong bối cảnh rủi ro thương mại tăng cao, việc tìm kiếm các thị trường mới như ASEAN, Ấn Độ hay châu Phi có thể giúp giảm thiểu tác động từ chính sách thuế của Mỹ. Đa dạng hóa đối tác, sản phẩm và nguồn vốn cũng là giải pháp hữu hiệu nhằm giảm thiểu rủi ro trong dài hạn.
TS. Lực khuyến nghị doanh nghiệp cần đầu tư mạnh mẽ vào nguồn nhân lực, nâng cấp công nghệ và quản lý hiệu quả. Việc cải thiện quản lý rủi ro tài chính, tỷ giá và pháp lý sẽ giúp doanh nghiệp nâng cao sức cạnh tranh. Đồng thời, việc tham gia sâu vào chuỗi giá trị toàn cầu sẽ tạo điều kiện thuận lợi để khai thác thị trường nội địa, gia tăng khả năng chống chịu trước biến động quốc tế.
Bên cạnh các giải pháp nội tại, doanh nghiệp cần chủ động tận dụng các hiệp định thương mại tự do (FTA) thế hệ mới và quan hệ đối tác với các quốc gia lớn như Mỹ, Nhật Bản, Úc, Singapore. Việc nghiên cứu kỹ các ưu đãi thuế quan trong các FTA sẽ giúp doanh nghiệp mở rộng thị trường xuất khẩu và tăng khả năng cạnh tranh.
Ngoài ra, việc theo dõi sát sao các biến động về thuế quan và xây dựng kịch bản ứng phó là rất cần thiết. Doanh nghiệp nên hợp tác chặt chẽ với các cơ quan đại diện thương mại ở nước ngoài để nắm bắt thông tin kịp thời, đồng thời đề xuất chính sách phù hợp với Chính phủ nhằm bảo vệ lợi ích của mình.
Đồng quan điểm với TS Cấn Văn Lực, ông Phạm Bình An, Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu phát triển TP.HCM cho rằng, ngoài việc mở rộng thị trường xuất khẩu, doanh nghiệp nên tái định hướng đầu tư cho thị trường nội địa, vốn được xem là điểm tựa chiến lược trong giai đoạn nhiều biến động.
Riêng tại TP.HCM, ông An chỉ ra rằng, doanh nghiệp có đầy đủ lợi thế về dịch vụ tài chính, công nghệ, logistics và các khu công nghiệp phát triển. Thị trường nội địa không chỉ giúp ổn định đầu ra mà còn tạo điều kiện cho doanh nghiệp tối ưu chi phí và tăng trưởng dài hạn.
Mỹ hiện là thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam, nhưng Việt Nam không đơn độc trong cuộc chơi toàn cầu. Hàng loạt hiệp định thương mại tự do (FTA) song phương và đa phương mà Việt Nam đã có mở ra cánh cửa để doanh nghiệp tiếp cận các thị trường khác như Nhật Bản, Úc, New Zealand hay ASEAN với mức thuế ưu đãi và rào cản kỹ thuật thấp hơn.
Vì thế, theo nhiều chuyên gia, đây là thời điểm thích hợp để doanh nghiệp Việt đa dạng hóa thị trường, thay vì lệ thuộc vào một quốc gia đơn lẻ./.