

Phân bón từ lâu là đầu vào then chốt của sản xuất nông nghiệp, chiếm 40 – 60%, thậm chí tới 70% chi phí trồng trọt. Điều này cho thấy chỉ cần biến động nhỏ về giá cũng có thể ảnh hưởng lớn đến thu nhập hàng triệu hộ nông dân.
Việt Nam hiện sản xuất khoảng 6,5 – 7 triệu tấn phân bón mỗi năm, nhập khẩu thêm 3 – 4 triệu tấn, cơ bản đáp ứng đủ nhu cầu. Tuy nhiên, sự phụ thuộc lớn như vậy khiến thị trường phân bón luôn là “điểm nóng” gắn liền với an ninh lương thực và sinh kế nông dân.
Hệ thống pháp luật, điển hình là Luật Trồng trọt 2018, đã tạo hành lang quản lý. Nhưng khi triển khai, nhiều bất cập nảy sinh.
Theo quy định tại Chương II, Nghị định 84/2019/NĐ-CP của Chính phủ Quy định về quản lý phân bón thì trong thời hạn 3 tháng khi nhận đủ hồ sơ mới được xét cấp Quyết định công nhận; Thời hạn Quyết định công nhận là 5 năm.
Có thể thấy thủ tục cấp phép lưu hành mỗi sản phẩm mất ít nhất ba tháng, trong khi hiệu lực chỉ 5 năm rồi phải gia hạn.
TS Nguyễn Trí Ngọc – Phó Chủ tịch kiêm Tổng Thư ký Hiệp hội Phân bón Việt Nam – cho rằng, cơ chế này quá cứng nhắc, tạo áp lực lớn về thời gian và chi phí, khiến doanh nghiệp giảm sức cạnh tranh. Vòng đời công nghệ thay đổi nhanh hơn nhiều so với chu kỳ pháp lý, tạo ra độ vênh lớn giữa quản lý và thực tiễn.

Thêm vào đó, thủ tục còn chồng chéo. Dù đã qua khâu thẩm định điều kiện sản xuất để được cấp phép, doanh nghiệp vẫn phải chịu thêm bước chứng nhận hợp quy.
Tại Điều 47, Luật TCQC quy định: “Chứng nhận hợp quy bắt buộc đối với sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ, quá trình, môi trường thuộc quy chuẩn kỹ thuật tương ứng”.
Theo Điều 48, phân bón thuộc nhóm sản phẩm phải thực hiện chứng nhận và công bố hợp quy.
Cùng với các quy định chuyên ngành, có thể khẳng định sản phẩm phân bón trước khi được cấp Quyết định lưu hành đã trải qua kiểm tra, đánh giá chuyên môn.
Vì vậy, công bố hợp quy hiện nay chủ yếu hình thức, trùng lặp, làm tăng chi phí sản xuất, cản trở xuất nhập khẩu và dễ phát sinh tiêu cực.

Bên cạnh thủ tục, bản thân khung pháp luật cũng tồn tại bất cập về khái niệm.
Ông Hoàng Văn Tại, đại diện Hiệp hội Phân bón Việt Nam, chỉ ra rằng định nghĩa phân bón trong luật quá chung, tạo kẽ hở để nhiều cơ sở chỉ nghiền nguyên liệu rồi bán như phân bón.
Điều này làm loãng chất lượng sản phẩm, gây rối loạn cạnh tranh và đẩy rủi ro về phía nông dân khi mua phải hàng kém chất lượng.
Việc gộp chất cải tạo đất với phân bón càng khiến hệ thống thêm phức tạp, trong khi việc đặt tên sản phẩm lên đến hàng trăm nghìn tên gọi khó kiểm soát.
Đặc biệt, quy định cho phép tiếp tục lưu hành sản phẩm đã bị hủy bỏ vừa bất hợp lý, vừa tiềm ẩn nguy cơ ảnh hưởng sức khỏe và môi trường.
Một lỗ hổng lớn khác là chế tài xử phạt còn quá nhẹ. Vi phạm liên quan đến phân bón giả, kém chất lượng chủ yếu dừng ở mức xử phạt hành chính, dẫn đến tái phạm phổ biến.
Theo các chuyên gia, quy định hiện hành vừa chung chung, vừa thiếu sức răn đe, nên khó kiểm soát hiệu quả các hành vi gian lận.
Trong khi đó, khâu phân phối nhỏ lẻ vẫn bị buông lỏng, hàng nghìn đại lý cấp huyện hoạt động thiếu giám sát, khiến phân bón giả dễ dàng đến tay nông dân.
Điều này cho thấy không chỉ pháp luật yếu, mà cả khâu thực thi cũng chưa hiệu quả.

Nghiêm trọng hơn, ngành phân bón thiếu hẳn một chiến lược phát triển dài hạn. Đề án phát triển phân bón 2010–2020 từng tạo định hướng, nhưng từ sau đó đến nay chưa có đề án quốc gia mới.
Trong khi đó, thị trường và công nghệ đang thay đổi nhanh chóng với sự xuất hiện của phân bón hữu cơ, sinh học, chế phẩm vi sinh.
Các chuyên gia nhận định sự chậm trễ này khiến pháp luật không theo kịp thực tiễn, còn doanh nghiệp thiếu cơ sở hoạch định chiến lược, dẫn đến phát triển manh mún, ngắn hạn.

Các lỗ hổng trong hành lang pháp lý không chỉ khiến quản lý phân bón trở nên nặng hình thức, mà còn tạo ra nhiều hệ lụy dây chuyền cho toàn ngành. Từ doanh nghiệp sản xuất, người nông dân sử dụng cho đến thị trường phân phối đều chịu những tác động tiêu cực.
Với doanh nghiệp, thủ tục và chi phí công bố hợp quy đang là gánh nặng lớn. Mỗi sản phẩm sản xuất trong nước hoặc lô hàng nhập khẩu đều mất khoảng 3 triệu đồng để hoàn tất thủ tục.
Nếu tính trên toàn ngành, con số này có thể lên tới hàng nghìn tỷ đồng mỗi năm, nhiều doanh nghiệp phải chi trả hàng tỷ đồng chỉ cho giấy phép.
Điều đáng nói, chi phí lớn này không đi kèm với cải thiện trong kiểm soát chất lượng, mà chỉ khiến giá thành tăng cao.

Hệ quả là phân bón nội ngày càng kém cạnh tranh so với hàng nhập khẩu giá rẻ, còn cơ hội xuất khẩu thì bị hạn chế bởi rào cản kỹ thuật.
Đại diện Công ty Cổ phần SOP Phú Mỹ cho biết Việt Nam sản xuất tới 20 triệu tấn phân bón mỗi năm, trong khi nhu cầu nội địa chỉ 10,5–11 triệu tấn.
Dư địa xuất khẩu là rất lớn, nhưng các quy định kiểm định hiện tại khiến doanh nghiệp khó tiếp cận thị trường quốc tế, đồng nghĩa nguy cơ mất lợi thế cạnh tranh.
Với nông dân – người trực tiếp sử dụng phân bón – gánh nặng còn rõ rệt hơn. Chi phí lưu hành cao khiến giá phân bón đội lên, trong khi chất lượng sản phẩm vẫn thiếu đảm bảo. Nhiều loại dù đã được công nhận hợp quy nhưng khi kiểm tra lại không đạt chuẩn.
Ông Hoàng Văn Tại, nguyên Tổng Giám đốc Công ty Cổ phần phân lân nung chảy Văn Điển, cho rằng, chứng nhận hợp quy chưa thực sự giúp ích cho quản lý nhà nước, mà chỉ đẩy chi phí sản xuất tăng cao, khiến nông dân chịu thiệt kép: chi phí đầu vào tăng, năng suất cây trồng lại giảm.
Đáng bàn hơn, thị trường bị méo mó bởi sự tràn lan của phân bón giả, kém chất lượng. Dù cơ quan chức năng xử lý hàng trăm vụ vi phạm mỗi năm, đó vẫn chỉ là phần nổi của tảng băng.
Ở nhiều vùng nông thôn, nơi giám sát lỏng lẻo, phân bón giả vẫn bày bán công khai. Hậu quả là cây trồng không được cung cấp đủ dưỡng chất, năng suất sụt giảm, đất đai thoái hóa và nông sản mất chất lượng.
Nông dân vừa mất chi phí đầu vào, vừa đối mặt thu nhập bấp bênh. Doanh nghiệp làm ăn chân chính cũng bị tổn hại khi hàng giả tạo ra cạnh tranh bất bình đẳng, làm nản lòng nhà đầu tư và kìm hãm quá trình đổi mới công nghệ.

Về lâu dài, sự tồn tại của phân bón kém chất lượng đe dọa trực tiếp đến mục tiêu phát triển nông nghiệp bền vững. Những sản phẩm chứa tạp chất, kim loại nặng hoặc dinh dưỡng sai lệch không chỉ làm đất bạc màu, hệ sinh thái suy thoái, mà còn kéo năng suất và chất lượng nông sản đi xuống.
Khi sức cạnh tranh giảm, nông sản Việt khó giữ vị thế trên thị trường quốc tế. Đồng thời, chi phí phục hồi đất và cải tạo môi trường lại chất thêm gánh nặng cho toàn ngành, tạo vòng luẩn quẩn mà nông nghiệp khó thoát ra nếu thiếu điều chỉnh kịp thời trong chính sách quản lý phân bón.

Trước yêu cầu phát triển nông nghiệp xanh, tuần hoàn và mục tiêu phát thải ròng bằng “0” vào năm 2050, ngành phân bón Việt Nam đứng trước sức ép phải tái cấu trúc. Việc xây dựng giải pháp toàn diện, từ hoàn thiện luật đến tổ chức lại hệ thống thực thi, trở thành yêu cầu cấp bách.
Một trong những giải pháp trọng tâm là tinh giản thủ tục, giảm chi phí cho doanh nghiệp. TS Phùng Hà – Chủ tịch Hiệp hội Phân bón Việt Nam – cho rằng, sửa đổi chính sách không chỉ nhằm giảm gánh nặng hành chính mà còn phải gắn với chiến lược nông nghiệp xanh, tuần hoàn và giảm phát thải.
Khi quy trình được đơn giản hóa, chi phí cắt giảm, doanh nghiệp có thể tập trung nghiên cứu, ứng dụng công nghệ mới và sản xuất phân bón an toàn, hiệu quả hơn. Đây là bước then chốt giúp ngành thích ứng với lộ trình phát triển bền vững đến 2050.

Song song với đó, việc rà soát luật để tách bạch khái niệm và gỡ bỏ quy định chồng chéo là không thể trì hoãn. Hiện định nghĩa “phân bón” còn quá chung, dễ bị lợi dụng để hợp thức hóa sản phẩm kém chất lượng.
Đặc biệt, việc gộp chung “chất cải tạo đất” với phân bón càng khiến thị trường thêm phức tạp. Vì vậy, cần quy định rõ tiêu chuẩn dinh dưỡng, chỉ số an toàn và yếu tố nguy hại; đồng thời chuyển từ cơ chế “tiền kiểm” sang “hậu kiểm” nhằm giảm thủ tục trước lưu hành, nhưng lại tăng hiệu quả giám sát sau khi sản phẩm ra thị trường.
Ở tầm chính sách vĩ mô, Nghị quyết 68-NQ/TW ngày 4/5/2025 của Bộ Chính trị đã mở ra cơ hội cải cách mạnh mẽ: loại bỏ cơ chế “xin – cho”, giảm ít nhất 30% thủ tục hành chính và chi phí tuân thủ.
TS Trương Hợp Tác – nguyên Trưởng phòng Phân bón, Cục Trồng trọt và BVTV – cho rằng, Bộ Nông nghiệp và Môi trường cần tận dụng thời điểm này để cắt bỏ các thủ tục bất hợp lý như công nhận lưu hành, khảo nghiệm, chứng nhận hợp quy.
Đồng thời, bổ sung các quy định mới như cấm sử dụng chất nhuộm màu trong phân bón để bảo vệ môi trường và sức khỏe cộng đồng.

Trong số các cải cách, việc bãi bỏ quy định hợp quy được coi là bước đột phá. Trên thực tế, không quốc gia nào yêu cầu điều kiện này khi xuất khẩu phân bón sang Việt Nam, cũng như không áp dụng khi sản phẩm Việt Nam ra thị trường quốc tế. Duy trì hợp quy chỉ khiến doanh nghiệp nội địa chịu thiệt, giảm sức cạnh tranh so với hàng nhập khẩu.
Vì vậy, nhiều chuyên gia cho rằng, việc loại bỏ là cần thiết để tạo môi trường bình đẳng, thúc đẩy doanh nghiệp trong nước phát triển.
Cuối cùng, để quản lý hiệu quả và hướng đến bền vững, ngành phân bón cần một chiến lược dài hạn gắn với mục tiêu nông nghiệp xanh.
Chiến lược này không chỉ kiểm soát chất lượng sản phẩm, mà còn thúc đẩy sản xuất sạch, bảo vệ môi trường và đảm bảo quyền lợi của nông dân – những người đang gánh chịu hậu quả trực tiếp từ tình trạng phân bón giả, kém chất lượng tràn lan.
Khánh Ly