
Những ngày đầu tháng 10/2025, sau hoàn lưu bão số 10 và mưa lớn kéo dài do bão số 11, các trục đường lớn quanh sân như Lê Đức Thọ, Châu Văn Liêm, Tân Mỹ, Trần Hữu Dực... đều ngập từ 20 đến 50 cm. Quảng trường trước cổng sân Mỹ Đình là điểm trũng nên ngập nặng nhất, nước dâng cao khoảng nửa mét, chỉ còn nhô lên phần ngọn của hàng rào sắt ven đường.

Tình trạng ngập úng kéo dài không chỉ làm đảo lộn sinh hoạt của người dân, mà còn gây thiệt hại đáng kể cho hoạt động kinh tế – xã hội, đặt ra yêu cầu cấp bách về năng lực chống chịu và quản lý đô thị của Thủ đô trong bối cảnh biến đổi khí hậu ngày càng cực đoan.

Theo thống kê của Công ty TNHH MTV Thoát nước Hà Nội, tổng lượng mưa đo được chỉ trong 24 giờ từ đêm 2 đến sáng 3/10, lượng mưa tại nhiều điểm, dao động 150–200 mm, khiến 35 điểm ngập sâu trên toàn thành phố. Hệ thống cống, hồ điều hòa và trạm bơm hoạt động hết công suất nhưng vẫn quá tải.

Không thể phủ nhận, trong gần hai thập niên qua, Hà Nội đã triển khai nhiều dự án trọng điểm về thoát nước như hệ thống cống bao Tô Lịch – Lừ – Sét, hồ điều hòa Yên Sở và hàng loạt trạm bơm quy mô lớn. Tuy nhiên, hiệu quả giảm ngập chưa đạt như kỳ vọng.
Các chuyên gia quy hoạch đánh giá, đô thị Hà Nội phát triển theo mô hình “vết dầu loang”. Các công trình nhà ở mọc lên nhanh chóng, trong khi hệ thống hồ chứa, bể ngầm trong các khu đô thị không được quan tâm đầu tư.

Hệ thống kênh mương thủy lợi bất đắc dĩ trở thành hệ thống thoát nước đô thị, đồng thời thiếu liên thông, đấu nối với các trạm bơm và hệ thống thoát nước, cho nên hiệu quả tiêu thoát nước không cao.
Theo KTS Trần Huy Ánh, Ủy viên Thường vụ Hội Kiến trúc sư Hà Nội, năm 2008 diện tích đất đô thị (lan rộng từ trung tâm ra ngoài) chỉ hơn 250km², nhưng đến năm 2025 con số này đã tăng gần 4 lần, lên tới 900km².

Ngoài ra, một số khu vực, trách nhiệm duy tu, nạo vét, bảo trì hệ thống thoát nước vẫn phân tán giữa các đơn vị, khiến phản ứng với sự cố thiên tai còn chậm.
Bên cạnh yếu tố tự nhiên và cơ sở hạ tầng, yếu tố ý thức đô thị và quản lý môi trường cũng tác động không nhỏ. Rác thải, bùn đất, vật liệu xây dựng đổ xuống miệng cống, mương thoát nước vẫn phổ biến ở nhiều tuyến phố, khiến lưu lượng thoát nước bị thu hẹp.

Hệ thống hạ tầng ngầm phức tạp (điện, viễn thông, cấp thoát nước) cũng khiến việc cải tạo, mở rộng cống rãnh gặp nhiều vướng mắc kỹ thuật.

Hà Nội đang đứng trước bài toán không chỉ “chống ngập” mà cần chuyển sang tư duy quản lý tổng hợp rủi ro đô thị, thích ứng với biến đổi khí hậu. Trong bối cảnh lượng mưa cực đoan ngày càng tăng, không thể chỉ dựa vào biện pháp công trình như nâng cốt nền hay mở rộng cống rãnh. Cần kết hợp giải pháp quy hoạch, hạ tầng xanh và cơ chế quản lý thống nhất hai cấp.
Theo định hướng trong Quy hoạch chung Thủ đô đến năm 2045, tầm nhìn 2065, Hà Nội sẽ phát triển hệ thống tiêu thoát nước theo lưu vực, liên thông các trạm bơm lớn với hồ điều hòa, sông nội đô. Đây là bước chuyển từ mô hình “thoát nước bằng ống” sang “điều tiết bằng không gian mở”.
Cần xây dựng nhiều hồ chứa, bể chứa nước mưa tạm thời để giảm áp lực cho hệ thống cống. Cùng với đó, cần chia tách nhỏ các lưu vực sông để đầu tư các dự án thoát nước nhằm giảm tải cho công trình đầu mối, phù hợp khả năng kinh tế, cũng như cần tìm giải pháp để nước thấm tự nhiên xuống mặt đất, vừa có tác dụng bổ cấp nước ngầm, vừa làm chậm dòng chảy…
Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Việt Anh, Phó Chủ tịch Hội Cấp thoát nước Việt Nam
Thành phố cũng đang nghiên cứu các mô hình thành phố bọt biển – tăng diện tích thấm nước, phục hồi hồ ao, công viên ngập nước để hấp thụ và trữ nước mưa.

Song song đó, công tác quy hoạch và cấp phép xây dựng cần kiểm soát nghiêm ngặt hơn. Các dự án phải đảm bảo kết nối hạ tầng thoát nước trước khi đưa vào sử dụng. Việc lấn chiếm, san lấp hồ ao tự nhiên cần được rà soát, phục hồi dần các hồ chức năng.
Theo Sở Xây dựng Hà Nội, hiện thành phố có hơn 120 hồ điều hòa, nhưng gần 20 hồ đang xuống cấp, cần đầu tư cải tạo. Việc “trả lại không gian nước” không chỉ là biện pháp kỹ thuật, mà là định hướng phát triển bền vững.
Ngoài ra, cần xã hội hóa nguồn lực trong đầu tư và duy trì hệ thống thoát nước. Nhiều chuyên gia đề xuất cơ chế thu phí dịch vụ thoát nước theo mức sử dụng, tương tự như điện, nước, để tạo nguồn tài chính ổn định cho duy tu, nâng cấp.

Đồng thời, khuyến khích doanh nghiệp, khu đô thị tư nhân áp dụng công nghệ xử lý nước mưa, tái sử dụng cho tưới cây, rửa đường, giảm tải cho hệ thống chung.
Việc giữ gìn miệng cống, kênh mương sạch sẽ, không xả rác bừa bãi là hành động nhỏ nhưng tác động lớn. Thành phố có thể tăng cường truyền thông và đưa tiêu chí “phường, khu dân cư không ngập” vào đánh giá thi đua cơ sở. Đây là cách chuyển từ “chống ngập của Nhà nước” sang “chống ngập của toàn dân”.

Trong dài hạn, Hà Nội cần coi thích ứng ngập lụt là một phần trong chiến lược phát triển bền vững. Ngập không chỉ là hệ quả của mưa lớn, mà là thước đo năng lực quản lý đô thị. Khi đô thị hóa diễn ra nhanh, việc “sống chung với nước” một cách chủ động, an toàn và khoa học sẽ là chỉ dấu của một thành phố hiện đại.
Từ thực tế đợt ngập đầu tháng 10/2025, có thể thấy Hà Nội đang chịu tác động kép: vừa do thời tiết cực đoan, vừa do sức ép từ phát triển nhanh. Ngập úng không chỉ là vấn đề kỹ thuật, mà còn là chỉ báo về năng lực quy hoạch, điều phối và phối hợp chính quyền các cấp. Những nỗ lực hiện cần được thực hiện theo tư duy thống nhất: quy hoạch phải đi trước, hạ tầng đi cùng, và quản lý vận hành theo lưu vực chứ không theo địa giới hành chính./.
Nguyễn Thị Thắm