
Khi Robot thay thế bàn tay
Khu Kinh tế Nghi Sơn là biểu tượng cho sự phát triển công nghiệp hóa của tỉnh Thanh Hóa. Tại đây, nhiều nhà máy trong các ngành dệt may, da giày, chế biến thực phẩm, cơ khí và chế biến vật liệu công nghiệp đang mạnh tay đầu tư vào tự động hóa và robot nhằm nâng cao năng suất, giảm chi phí nhân công và cải thiện chất lượng sản phẩm. Các hệ thống tự động đang dần thay thế những công đoạn lặp đi lặp lại, đặt ra thách thức không nhỏ cho các công nhân lớn tuổi, vốn quen với thao tác thủ công, trong việc làm quen với kỹ năng số.
Chị Nguyễn Thị Hòa, 40 tuổi, công nhân may tại Công ty TNHH Dịch vụ May Nghi Sơn 2, đã có gần 10 năm làm việc với các loại máy may truyền thống. Thế nhưng, công việc may ráp lặp đi lặp lại mà chị gắn bó bấy lâu nay đang đối mặt nguy cơ bị thay thế bởi robot, máy may tự động, máy CNC và các hệ thống điều khiển bằng AI. Những kỹ năng thủ công tích lũy suốt nhiều năm có thể nhanh chóng trở nên lỗi thời, khiến chị rơi vào tình thế đầy bất trắc.

“Trước đây làm 8 tiếng, lương cứng 7–8 triệu. Giờ công ty mở lớp học vận hành máy mới, nhưng vừa nhìn vào các nút bấm và phần mềm quản lý là tôi hoa mắt. Tay quen cầm kim chỉ, quen với máy cơ, giờ bảo học máy CNC hay phần mềm quản lý thì thật sự quá khó. Tôi tính chuyển sang khâu thủ công khác, nhưng công việc ngày càng ít, lương chỉ còn khoảng 5 triệu,” chị Hòa chia sẻ.
Công nghệ số trong sản xuất diễn ra nhanh hơn rất nhiều so với khả năng đào tạo lại nhân lực. Đặc biệt là với các công nhân trên 40 tuổi, đó là một cuộc đua không cân sức. Những thay đổi về tâm sinh lý khiến họ khó tiếp thu các kiến thức trừu tượng, trong khi các chương trình đào tạo thường được thiết kế chung, thiếu sự kiên nhẫn và giáo trình riêng cho đối tượng lớn tuổi.
Theo báo cáo nghiên cứu của VCCI và Tổng cục Giáo dục nghề nghiệp năm 2023, các ngành thâm dụng lao động như dệt may, da giày, lắp ráp điện tử – nơi sử dụng hàng triệu lao động – đang đối diện nguy cơ 70% việc làm bị thay thế bởi robot và AI trong 10 năm tới.
Hệ quả là nhiều công nhân lớn tuổi bị đẩy sang các vị trí lao động phổ thông như bốc vác. Ngoài ra, sự chênh lệch về kỹ năng số dẫn tới khoảng cách thu nhập rõ rệt trong các khu công nghiệp. Những kỹ sư IT hay công nhân vận hành hệ thống AI có mức lương khởi điểm từ 15 đến 25 triệu đồng mỗi tháng. Trong khi đó, công nhân vận hành máy tự động hóa chỉ nhận được 10–15 triệu đồng, còn những công nhân làm việc thủ công hoặc phổ thông bị điều chuyển sang các vị trí bốc vác, tạp vụ, mức lương chỉ còn 5–8 triệu đồng mỗi tháng.

Sự phân hóa thu nhập và khoảng cách kỹ năng số làm gia tăng áp lực đối với công nhân, đồng thời tiềm ẩn nguy cơ bất ổn lao động tại các khu công nghiệp. Nhiều công nhân lớn tuổi, quen với thao tác thủ công, đang gặp khó khăn trong việc tiếp cận các kỹ năng số và vận hành hệ thống tự động, tạo ra thách thức kép cho quá trình chuyển đổi nghề nghiệp.
Bà Vi Thị Hồng Minh – Phó Giám đốc Văn phòng Giới sử dụng lao động (VCCI) nhấn mạnh những thách thức về nguồn nhân lực trong quá trình chuyển đổi số và xanh. Thị trường hiện thiếu hụt nghiêm trọng nhân lực chất lượng cao: nhu cầu nhân lực công nghệ thông tin và công nghiệp số của Việt Nam khoảng 150.000 kỹ sư/năm, nhưng hiện chỉ đáp ứng được 40–50%. Riêng ngành công nghiệp bán dẫn cần 5.000–10.000 kỹ sư/năm, nhưng khả năng đáp ứng chưa đến 20%. Đến năm 2030, cả nước dự kiến cần tới 2,5 triệu nhân lực phục vụ chuyển đổi số.
Tường thành" chia cắt nông dân và tiểu thương
Sự bất bình đẳng về số hóa không chỉ gây mất mát với người lao động trong các khu công nghiệp, mà còn lan rộng ra khu vực kinh tế phi chính thức, nơi hàng triệu tiểu thương và nông dân đang bị bỏ lại phía sau bởi làn sóng thương mại điện tử và nông nghiệp công nghệ cao. Những thay đổi trong công nghệ và thị trường số đang ảnh hưởng trực tiếp đến sinh kế của họ.

Đối với những người làm dịch vụ và buôn bán nhỏ, thương mại điện tử và các ứng dụng giao hàng trực tuyến đã làm giảm lượng khách hàng tại chợ truyền thống. Bà Nguyễn Thị Hoa, tiểu thương ở Chợ Phố Đoàn (huyện Bá Thước cũ), chia sẻ: “Mấy đứa trẻ giờ toàn đặt hàng trên mạng, giao đến tận nhà, vừa tiện vừa rẻ hơn. Chúng tôi buôn bán ở chợ, không biết chụp ảnh đẹp, không biết livestream. Khách vơi dần, thu nhập giảm một nửa.”
Đối với nông dân, công nghệ thông minh trong nông nghiệp, như hệ thống cảm biến, tưới tự động hay nhật ký điện tử, giúp tăng năng suất và chất lượng sản phẩm. Tuy nhiên, chi phí đầu tư cao và phức tạp khiến đại đa số nông dân lớn tuổi không thể tiếp cận. Họ vẫn duy trì phương thức canh tác truyền thống, dẫn đến năng suất thấp, sản phẩm khó cạnh tranh, và khoảng cách thu nhập giữa nông dân áp dụng công nghệ và nông dân truyền thống ngày càng rõ rệt.
Ông Lê Văn Bình, 71 tuổi, trú tại bản Kéo Té, xã Nhi Sơn, chủ thể sản phẩm OCOP Măng khô Bình Thiết, bày tỏ: “Măng khô của chúng tôi đã đạt OCOP, nhưng để đưa lên sàn thương mại điện tử, tôi phải học cách đóng gói theo tiêu chuẩn, rồi chụp ảnh sản phẩm, viết mô tả, làm mã QR. Những thứ này quá mới mẻ và phức tạp với người đã quen làm nông như tôi. Vốn ít, lại thiếu người trẻ hỗ trợ, nên sản phẩm OCOP vẫn chủ yếu bán qua kênh truyền thống.”
Những tín hiệu từ sự đào thải số tại các khu công nghiệp là lời cảnh báo về sự thiếu đồng bộ trong phát triển kinh tế. Nếu không có giải pháp kịp thời, quá trình tự động hóa sẽ tạo ra một tầng lớp lao động thất nghiệp hoặc bị đẩy vào các công việc bấp bênh.
Thanh Hóa có thể hướng tới một chương trình hỗ trợ nâng cao kỹ năng, với giáo trình phù hợp người lớn tuổi, giúp họ làm quen với các kỹ năng mềm, làm việc nhóm và an toàn thông tin, thay vì chỉ vận hành máy móc. Những hỗ trợ tài chính và hướng dẫn trong quá trình chuyển đổi cũng sẽ giúp công nhân tự tin thích nghi với thay đổi.
Khi công nghệ thực sự đồng hành cùng con người, thay vì bỏ họ lại phía sau, sự phát triển kinh tế tại Thanh Hóa sẽ trở nên bền vững, công bằng và nhân văn hơn.
Bài 4: Chính sách số và những nút thắt chưa được tháo