
Tỷ lệ cho vay/huy động cao kỷ lục
Thống kê báo cáo tài chính quý III/2025 của 27 ngân hàng thương mại cho thấy, tổng lợi nhuận trước thuế đạt hơn 84.300 tỷ đồng, tăng gần 25% so với cùng kỳ năm 2024. Lũy kế 9 tháng, tổng lợi nhuận trước thuế của 27 ngân hàng đạt gần 258.000 tỷ đồng, tăng 17% so với cùng kỳ năm trước.
Cùng với đó, quy mô tổng tiền gửi khách hàng tại 27 nhà băng trên đến cuối tháng 9 cũng tăng khoảng 10% so với cùng kỳ lên hơn 12,26 triệu tỷ đồng. Trong khi, cho vay khách hàng tăng mạnh hơn (15%) lên 13,43 triệu tỷ đồng.
Hệ số LDR (tỷ lệ cho vay/huy động) toàn hệ thống theo đó tiếp tục được kéo giãn lên mức cao lịch sử, đạt gần 110% tại thời điểm cuối quý III/2025.
Theo dự báo của Chứng khoán BIDV (BSC Research), LDR của các ngân hàng dự kiến có thể tăng lên khoảng 111% đến cuối năm nay. Chênh lệch giữa tăng trưởng tín dụng và tăng trưởng tiền gửi duy trì trung bình khoảng 3 điểm % từ đầu quý III đến nay, mặc dù đã có những nỗ lực để giải ngân tiền của Kho bạc Nhà nươc khi chi đầu tư phát triển từ ngân sách Nhà nước trong 9 tháng năm 2025 tăng trưởng tới 41% so với cùng kỳ năm 2024.

Đáng chú ý, hệ số LDR của các ngân hàng trong nhóm “Big 4” – vốn chiếm ưu thế về quy mô tiền gửi và cho vay khách hàng – đều tăng đáng kể so với cùng kỳ. Trong đó, BIDV dẫn đầu hệ thống với hơn 2,087 triệu tỷ đồng tiền gửi (tăng 6,9% so với cùng kỳ) và 2,197 triệu đồng cho vay (tăng 8,9% so với cùng kỳ). Hệ số LDR đến cuối quý III tăng lên mức 105,3% (cùng kỳ là 103,3%).
VietinBank cũng có tăng trưởng cho vay vượt tăng trưởng huy động, lần lượt đạt 1,953 triệu tỷ đồng (tăng 15,8% so với cùng kỳ) và 1,775 triệu tỷ đồng (tăng 10,5%). Hệ số LDR của ViettinBank ở mức 110% tại thời điểm cuối quý III, tăng so với mức 104,9% của cùng kỳ.
Tương tự, với Vietcombank tăng trưởng quy mô tiền gửi (đạt gần 1,612 triệu tỷ đồng, tăng 6,4% so với cùng kỳ) cũng không theo kịp tăng trưởng tín dụng (đạt 1,63 triệu tỷ đồng, tăng 12,5%), theo đó LDR đến cuối quý III/2025 đã vượt lên 101,1% (cùng kỳ là 95,7%).

Hệ số LDR ở nhóm ngân hàng thương mại cổ phần thậm chí còn tăng mạnh hơn. Điển hình như tại VPBank, LDR đến cuối quý III đã lên tới 150% (cùng kỳ là 140%), tiếp tục dẫn đầu hệ thống. Tại ngày 30/9, huy động tiền gửi của VPBank đạt hơn 585.800 tỷ đồng và tín dụng đạt trên 879.000 tỷ đồng, lần lượt tăng 20,6% và 29% so với cùng kỳ.
Techcombank cũng có LDR lên tới 127,1% (tăng so với mức 116,9% của cùng kỳ). Trong đó, tín dụng tăng trưởng 21,2% so với cùng kỳ, lên hơn 756.000 tỷ đồng, trong khi huy động tiền gửi tăng 11,6%, lên hơn 595.000 tỷ đồng.
Một số ngân hàng khác cũng có hệ số LDR ở mức cao như SeABank (129,6%), OCB (124,2%), VIB (119,5%), LPBank (117,3%), MBBank (116,5%), CAB (116,1%), TPBank (112,2%), MSB (110,1%), BVBank (109%)…
Các ngân hàng như HDBank, Eximbank, VietBank cũng ghi nhận LDR tăng nhẹ lên quanh mức hơn 100%, Nam A Bank giảm nhẹ xuống 101% (cùng kỳ là 104,6%), trong khi các ngân hàng còn lại duy trì LDR từ 78-98%.

Theo chuyên gia, chiến lược mở rộng tín dụng nhanh hơn huy động đã giúp nhiều ngân hàng tối ưu hóa lợi nhuận trong những năm qua. Số liệu quý III và 9 tháng năm 2025 cho thấy, hầu hết các ngân hàng có LDR cao đều có lợi nhuận tăng trưởng mạnh, điển hình như VPBank, Techcombank, SeABank, OCB, LPBank….
Tuy nhiên, khi tỷ lệ LDR tiếp tục tăng, rủi ro thanh khoản cũng tăng lên, vì ngân hàng có thể không đủ tiền để đáp ứng nhu cầu rút tiền đột xuất của khách hàng, đặc biệt trong bối cảnh biến động lãi suất và cạnh tranh trong huy động vốn ngày càng gay gắt.
Ngân hàng bước vào cuộc đua tăng lãi suất huy động
Trong báo cáo về ngành ngân hàng mới đây, Chứng khoán SSI cho rằng thanh khoản là yếu tố đáng lưu ý với hệ thống ngân hàng khi LDR thuần của các ngân hàng đã tăng lên mức trên 100%, cho thấy nhu cầu đẩy mạnh huy động tiền gửi trong quý IV/2025 để hỗ trợ tăng trưởng tín dụng.
Thực tế, từ đầu tháng 11 đến nay, nhiều ngân hàng tiếp tục tăng lãi suất huy động. Cụ thể, VPBank tăng thêm 0,3%/năm so với tháng trước. Trong đó, lãi suất gửi tiết kiệm tại quầy kỳ hạn 1-5 tháng ở mức 4,2%/năm cho khoản gửi dưới 10 tỷ đồng và tăng lên 4,3-4,4%/năm nếu gửi từ 10 tỷ đồng trở lên. Kỳ hạn dài trên 12 tháng dao động từ 5,3-5,6%/năm, trong khi gửi online được hưởng cao hơn 0,1-0,2%, mức cao nhất đạt 5,8%/năm.
BVBank triển khai chương trình "10 ngày vàng lãi suất", với mức cao nhất 6,8%/năm cho kỳ hạn 12 tháng gửi online. Từ ngày 3-13/11, khách hàng được cộng thêm đến 1,2 điểm %, các kỳ hạn 1 tháng 4,75%, 6 tháng 6,5%, 12 tháng 6,8%... BVBank cũng giới thiệu chứng chỉ tiền gửi online với kỳ hạn linh hoạt 6-15 tháng, lãi suất tối đa 6,3%/năm cho kỳ hạn 15 tháng.
HDBank cũng tăng lãi suất kỳ hạn 1-5 tháng tăng từ 3,35-3,45%/năm lên 3,5-3,6%/năm. Kỳ hạn 6 tháng ghi nhận mức tăng mạnh từ 5,2% lên 5,4%/năm; kỳ hạn 12-13 tháng tăng thêm 0,2 điểm %, lên lần lượt 5,7% và 5,9%/năm.
Tương tự, SHB sau gần 8 tháng không thay đổi cũng vừa tăng mạnh lãi suất huy động tiền gửi online, tập trung vào các kỳ hạn ngắn, mức tăng cao nhất lên đến 0,6%. Bac A Bank có 3 lần điều chỉnh lãi suất trong chưa đầy 1 tháng, với lãi suất huy động tăng thêm 0,45-0,65 điểm %/năm, đưa mức cao nhất lên tới 6,5%/năm. NCB tăng thêm 0,1 điểm %/năm cho toàn bộ kỳ hạn 1-36 tháng, trong đó mức cao nhất đạt 5,7%/năm. GPBank nâng lãi suất các kỳ hạn từ 6-36 tháng thêm 0,1 điểm %.
Tính chung đến đầu tháng 11, một số ngân hàng như Bac A Bank, Vikki Bank, VietABank, PVcomBank, HDBank trả lãi trên 6%/năm, chủ yếu ở kỳ hạn từ 12 đến 18 tháng. Trong khi, phần lớn các ngân hàng còn lại đã neo quanh mức 5,2-5,8%/năm, trong khi nhóm quốc doanh vẫn ổn định ở vùng thấp nhất thị trường, quanh 4,7-4,8%/năm.

Ngoài ra, các nhà băng cũng áp dụng mức lãi suất đặc biệt (cao nhất 6,5%-9%) đi kèm các điều kiện. Chẳng hạn, PVcomBank áp dụng lãi đặc biệt 9%/năm cho kỳ hạn 12-13 tháng khi gửi tiền tại quầy. Điều kiện áp dụng là khách hàng phải duy trì số dư tối thiểu 2.000 tỷ đồng.
HDBank áp dụng lãi suất 8,1%/năm cho kỳ hạn 13 tháng và 7,7%/năm cho kỳ hạn 12 tháng, với điều kiện duy trì số dư tối thiểu 500 tỷ đồng; Vikki Bank áp dụng lãi suất 7,5%/năm cho tiền gửi kỳ hạn từ 13 tháng trở lên, với số tiền tối thiểu 999 tỷ đồng...
Việc nhiều ngân hàng tăng lãi suất huy động được nhận định nhằm đón đầu nhu cầu vốn tăng cao dịp cuối năm và thu hẹp chênh lệch giữa tăng trưởng cho vay và huy động vốn.
Bên cạnh việc tăng lãi suất huy động, để tiếp tục cân đối LDR, Chứng khoán BSC cho rằng các ngân hàng sẽ tăng huy động giấy tờ có giá qua phát hành trái phiếu và chứng chỉ tiền gửi. BSC ước tính tỷ trọng giấy tờ có giá trong tổng các nguồn huy động thị trường 1 của toàn hệ thống đã tăng lên hơn 10,6% đến thời điểm đầu quý III/2025, cao hơn 1 điểm % so với đầu năm và là mức cao lịch sử.
Trên thị trường tiền tệ, lãi suất liên ngân hàng VND cũng đang chịu áp lực gia tăng, trung bình lãi suất USD-VND kỳ hạn 1 năm từ đầu tháng 8 đến nay duy trì ở mức 1,7%, cao hơn đáng kể so với giai đoạn đầu năm và xuyên suốt 2024.
Cũng theo BSC, năm 2025 đang ghi nhận một lượng lớn nguồn tiền trên thị trường 2 được sử dụng để tài trợ cho tín dụng thị trường 1. Xét riêng quý III, BSC ước tính khôi lượng bơm ròng qua kênh thị trường mở (hơn 1 triệu tỷ đồng) tương đương 187% mức tăng ròng của dư nợ tín dụng (hơn 540.000 tỷ). Kỳ hạn cũng được đẩy lên cao hơn 7 và 14 ngày thông thường với 22% lượng bơm ròng có kỳ hạn 35 và 91 ngày. “Nhu cầu lớn khiến lãi suất liên ngân hàng duy trì mức nền cao là không thể tránh khỏi”, BSC nhận định.
Không chỉ lãi suất thị trường 2 hay lãi suất huy động có kỳ hạn đang gia tăng, lãi suất CASA (tiền gửi không kỳ hạn) thực tế hiện nay cũng không còn rẻ như trước khi các các ngân hàng chạy đua với sản phẩm sinh lời tự động (cơ bản là dùng tiền nhãn rỗi của khách hàng để đi đầu tư vào loại hình khác và cam kết rút trước hạn không mất lãi).
Nhìn chung, với mặt bằng lãi suất huy động đang gia tăng, BSC dự báo tỷ lệ CASA toàn ngành có thể chịu áp lực trong thời gian tới khi khách hàng có thể dịch chuyển sang các kỳ hạn dài hơn, nhất là khi tỷ lệ CASA hiện đang ở mức cận đỉnh ghi nhận vào đầu 2022. Điều này sẽ khiến cho chi phí vốn tại các ngân hàng cao hơn, NIM bị thu hẹp, ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động ngân hàng trong dài hạn.

Để bảo vệ NIM (tỷ suất lợi nhuận ròng), nhiều ngân hàng, đặc biệt là nhóm tư nhân có vị thế trong ngành, đã chủ động tăng lãi suất cho vay trở lại thời gian qua. Trong thời gian tới, BSC dự báo xu hướng này được kỳ vọng đem lại tín hiệu khởi sắc cho các ngân hàng quốc doanh vì đây là nhóm đã chịu nhiều hi sinh qua các gói cho vay lãi ưu đãi. Điển hình là cả Vietcombank và BIDV đã đồng loạt dừng triển khai gói cho vay mua nhà cố định lãi suất 3 năm đầu (mà thay vào đó cố định kỳ hạn ngắn hơn, trong khoảng 1-2 năm).
Ngoài ra, trước xu hướng NIM khó có thể quay trở lại thời kỳ hoàng kim trung bình ngành >4%, BSC cho biết nhiều ngân hàng đang tập trung cải thiện nguồn thu ngoài lãi qua việc mở rộng hệ sinh thái bán chéo, điển hình là thành lập công ty bảo hiểm nhân thọ của riêng mình.
Bên cạnh đó, các mảng kinh doanh mới như sàn giao dịch vàng và sàn giao dịch tài sản mã hóa sẽ là động lực trong dài hạn, bởi giai đoạn đầu thí điểm sẽ mất nhiều thời gian và chi phí để nghiên cứu sản phẩm và hoàn thiện khuôn khổ pháp lý, từ đó triển khai trên tinh thần thận trọng và chưa thể đóng góp nhiều vào kết quả kinh doanh trong ngắn hạn.