
Từ Khu đô thị thông minh đến miền núi bị "ngắt kết nối"
Chính phủ đã triển khai nhiều chương trình thúc đẩy chuyển đổi số: Cổng Dịch vụ công Quốc gia, thanh toán không tiền mặt trong các cơ quan hành chính, ứng dụng VNeID. Các nghị quyết, thông tư liên quan đến xây dựng Chính phủ số và phổ cập kỹ năng số được ban hành rộng rãi, nhằm hiện đại hóa hành chính và giảm thủ tục cho người dân. Tuy nhiên, cùng với những thành tựu đó là thách thức không nhỏ, khi vẫn còn nhiều người chưa đủ điều kiện hoặc kỹ năng để tiếp cận công nghệ, làm gia tăng nguy cơ bất bình đẳng số.
Hưởng ứng tinh thần chung của toàn nước, những năm qua, Thanh Hóa đang nỗ lực chuyển mình thành một tỉnh kiểu mẫu. Những khu đô thị mới tại TP Thanh Hóa (cũ) hay Khu Kinh tế Nghi Sơn mọc lên, với hệ thống camera giám sát, nhà thông minh, và phần lớn các giao dịch được thực hiện qua ví điện tử. Đó là một bức tranh tươi sáng về tương lai số.
Nhưng chỉ cách đó chưa đầy 100km, tại các xã vùng sâu vùng xa, bức tranh hoàn toàn khác. Ở đây, khái niệm “Chính phủ số” vẫn còn xa vời. Tại đây, bà con dân tộc thiểu số ở đây quanh năm chỉ lo lắng về việc trồng trọt, đối phó với sạt lở, chứ không phải về tốc độ xử lý hồ sơ trực tuyến. Ngay cả tại các khu vực thuần nông như Hoằng Hóa, Nông Cống, sự đối lập cũng hiện hữu rõ rệt.

Ông Lê Thế Tuấn, 85 tuổi, ở xã Trung Chính (Thanh Hóa), cho biết: “Chúng tôi nghe đài nói về nộp thuế online, về định danh điện tử, nhưng thực sự chưa biết bắt đầu từ đâu. Con cái đi làm ăn xa, ở nhà chỉ có hai ông bà với cái điện thoại con mua cho để gọi video.”
Theo thống kê của Sở Khoa học và Công nghệ Thanh Hóa, mặc dù tỉ lệ người dùng smartphone đã tăng cao, nhưng tỷ lệ người dân vùng nông thôn, người lớn tuổi sử dụng các dịch vụ công trực tuyến (cấp độ 4) một cách thành thạo vẫn còn rất thấp. Đây không chỉ là vấn đề thiếu thiết bị, mà còn là rào cản về kỹ năng cơ bản và nhận thức.
Sự chênh lệch trong việc tiếp cận công nghệ đã biến thành sự chênh lệch trong chất lượng cuộc sống và khả năng thụ hưởng quyền lợi xã hội.
Tại nhiều xã vùng núi, việc truy cập Internet 4G/5G vẫn là một điều xa xỉ. Đường truyền chập chờn, thậm chí bị ngắt kết nối khi trời mưa. Điều này khiến cho các buổi học trực tuyến, giao dịch ngân hàng qua ứng dụng hoặc cuộc họp từ xa trở nên bất khả thi.
Ông Cao Văn Công, Trưởng phòng Văn hóa xã Quang Chiểu, cho biết: “Hiện nay trên địa bàn xã còn 3 bản chưa có sóng điện thoại, gồm bản Co Cài, bản Suối Tút và bản Con Dao. Người dân ở các bản này phải đi bộ lên những điểm cao hoặc sang bản khác mới bắt được sóng. Điều này khiến nhiều hoạt động hành chính, giáo dục và tuyên truyền của xã bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Chúng tôi rất mong được đầu tư hạ tầng viễn thông để bà con có điều kiện tiếp cận thông tin và các dịch vụ số.”
Bên cạnh đó, chi phí để mua sắm điện thoại thông minh, máy tính bảng cũng là gánh nặng lớn đối với các hộ nghèo. Dù có các chương trình hỗ trợ, nhưng việc duy trì chi phí Internet hàng tháng đã tạo ra một rào cản tài chính.
Ngoài ra, tâm lý lo sợ bị lừa đảo qua mạng là một trong những nguyên nhân khiến người lớn tuổi né tránh công nghệ. Các chiêu trò lừa đảo tinh vi nhắm vào tài khoản ngân hàng, thông tin cá nhân đã tạo ra một tâm lý e ngại sâu sắc.
Bà Nguyễn Thị Luyến, một tiểu thương ở Chợ Tây Thành (phường Hạc Thành), chia sẻ “Các cháu cứ bảo cài app này app kia, nhưng cứ nghe thấy lừa đảo là tôi sợ. Thôi cứ giữ tiền mặt, làm giấy tờ trực tiếp là an toàn nhất”.
Lòng tin bị xói mòn khiến họ từ chối những tiện ích thực sự của CĐS như y tế từ xa, hay cảnh báo thiên tai. Họ tự nguyện chấp nhận sự chậm trễ và bất tiện của phương thức truyền thống để đổi lấy sự an toàn.
Hệ lụy rõ ràng nhất của bất bình đẳng số là việc hàng ngàn hồ sơ hành chính, từ đăng ký kinh doanh, giấy khai sinh đến hồ sơ đất đai, nay được ưu tiên xử lý qua Cổng Dịch vụ công Quốc gia. Thế nhưng, nếu không có kỹ năng số, người dân buộc phải tìm đến sự trợ giúp từ “Tổ công nghệ số cộng đồng” (mô hình đang được triển khai mạnh tại Thanh Hóa) hoặc nhờ con cháu. Điều này không chỉ gây mất thời gian mà còn bị phụ thuộc, làm giảm đi tính tự chủ của công dân.
Thực tế tại xã Thanh Kỳ cho thấy, hiện nay nhiều cán bộ xã phải dành phần lớn thời gian làm công tác “phổ cập”, hướng dẫn từng người dân một. Thay vì giải phóng được thời gian hành chính, CĐS lại đang tạo ra gánh nặng mới cho cán bộ cơ sở trong việc san lấp khoảng cách số.
Bài toán nhân lực và nguy cơ "đào thải số"
“Khoảng cách mạng” không chỉ dừng lại ở dịch vụ công, nó còn len lỏi vào thị trường lao động, đe dọa sinh kế của một bộ phận lớn công nhân và người lao động phổ thông tại Thanh Hóa.
Với định hướng thu hút đầu tư công nghệ cao, các khu công nghiệp mới tại Nghi Sơn, Lễ Môn hay Bỉm Sơn đang dần thay thế dây chuyền cũ bằng robot và quy trình tự động hóa.
Chị Lê Thị Hương (40) - công nhân tại Khu Công nghiệp Lễ Môn, tâm sự: “Trước kia, công việc của tôi chủ yếu là làm các công đoạn thủ công trong dây chuyền may. Giờ đây, nhiều công đoạn đã được ứng dụng máy móc và phần mềm quản lý, nên chúng tôi phải học thêm kỹ năng mới để theo kịp công việc. Tôi và nhiều chị em lớn tuổi khác được yêu cầu nâng cao kỹ năng, nếu không sẽ phải làm những khâu ít công nghệ hơn hoặc thu nhập thấp hơn”.

Sự chênh lệch về thu nhập giữa người có kỹ năng số (vận hành, bảo trì AI) và người chỉ có kỹ năng truyền thống ngày càng lớn. Đây được xem là một cuộc “đào thải số” âm thầm, đặt ra thách thức lớn cho các trường nghề và trung tâm giáo dục thường xuyên của tỉnh.
Theo nghiên cứu, người lao động tại Thanh Hóa còn thiếu nghiêm trọng các kỹ năng số cơ bản để thích ứng với thị trường 4.0, đặc biệt là các kỹ năng phân tích dữ liệu, bảo mật thông tin và làm việc trên nền tảng số. Trong khi các chương trình đào tạo lại còn mang tính hình thức, chưa đi vào thực chất nhu cầu của người lao động lớn tuổi, khiến họ khó hấp thụ kiến thức.
Chuyển đổi số là xu thế tất yếu, là động lực để Đất nước bước vào kỷ nguyên vươn mình, bứt phá. Tuy nhiên, nếu không giải quyết tận gốc rễ vấn đề “Bất bình đẳng số” thì sự phát triển này sẽ trở nên khập khiễng và thiếu bền vững.
Đặc biệt, khi để “khoảng cách mạng” tiếp tục nới rộng, nó sẽ dẫn đến nhiều hệ lụy xã hội như: sự mất niềm tin vào chính quyền, gia tăng thất nghiệp cục bộ, và tệ hơn là sự cô lập của cả một thế hệ người lớn tuổi và cư dân vùng khó khăn.
Muốn vững bước trong thời đại số, điều đầu tiên cần giải quyết là việc phổ cập kỹ năng số, củng cố hạ tầng cơ sở và xây dựng niềm tin cho người dân là nhiệm vụ song hành, cấp thiết không kém việc thu hút đầu tư công nghệ. Chỉ khi mọi người dân từ vùng biển Hoằng Hóa đến núi rừng Mường Lát đều có thể tự tin tiếp cận và sử dụng dịch vụ số, quá trình chuyển đổi số mới thật sự mang ý nghĩa sâu sắc về sự công bằng, bao trùm và phát triển nhân văn./.
Bài 2: Người già và thử thách công nghệ