

Trong bối cảnh biến đổi khí hậu và ô nhiễm môi trường ngày càng gia tăng, việc chuyển đổi sang mô hình khu công nghiệp xanh (KCN xanh) là xu hướng tất yếu. Việt Nam đã có những bước tiến đáng kể trong việc phát triển KCN xanh từ năm 2014, với một số địa phương tiên phong như Đà Nẵng, Cần Thơ, TP Hồ Chí Minh và Đồng Nai. Tuy nhiên, hiện nay chỉ khoảng 1-2% trong số 290 KCN đang hoạt động trên cả nước đang trong quá trình chuyển đổi sang mô hình sinh thái/xanh. Trong đó Đà Nẵng đặt mục tiêu đến năm 2030 sẽ có từ 2 đến 3 KCN sinh thái đạt tiêu chuẩn quốc gia.


Tuy nhiên, quy mô tín dụng xanh vẫn còn khiêm tốn so với nhu cầu. Các thách thức bao gồm thời gian hoàn vốn dài, chi phí đầu tư lớn cho các dự án xanh, việc thiếu danh mục phân loại xanh, hạn chế trong đào tạo cán bộ ngân hàng về thẩm định rủi ro môi trường và nhiều doanh nghiệp chưa hiểu rõ về tín dụng xanh. Để tín dụng xanh thực sự là động lực cho chuyển đổi xanh, cần có các giải pháp nâng cao khả năng tiếp cận nguồn vốn, tăng tỉ trọng tín dụng xanh, tiết giảm chi phí để giảm lãi suất cho vay, đẩy mạnh thông tin truyền thông, nâng cao năng lực cán bộ, hoàn thiện khung pháp lý, và tăng cường hợp tác giữa các bên liên quan.


Một trong những vấn đề được nhiều diễn giả nhấn mạnh là cần khẩn trương hoàn thiện khung pháp lý về tín dụng xanh. “Không có khung chính sách rõ ràng thì sẽ không có niềm tin để doanh nghiệp mạnh dạn đầu tư dài hạn vào công nghệ xanh, đổi mới quy trình sản xuất”, ông Đặng Quốc Bảo - Phó Tổng Giám đốc Tập đoàn Trung Nam - phát biểu.
Ông Bảo cho hay, Trung Nam đang vận hành các dự án năng lượng tái tạo với tổng công suất 1,6GW và doanh thu hơn 7.000 tỉ đồng/năm. Tuy nhiên, toàn bộ các khoản vay hơn 26.000 tỉ đồng của tập đoàn này vẫn không được tính là tín dụng xanh vì “không có cơ quan nào hướng dẫn hay xác nhận tiêu chuẩn dự án xanh vào thời điểm triển khai”. Đây cũng là thực trạng phổ biến của nhiều doanh nghiệp trong nước: có nhu cầu, có năng lực, có dự án - nhưng thiếu hành lang pháp lý để tiếp cận nguồn vốn ưu đãi.

Phát biểu tại hội thảo, ông Đào Minh Tú - Phó Thống đốc Thường trực NHNN cho biết, hiện tại, các quốc gia trên thế giới cũng đã đặt ra các yêu cầu gắt gao về chỉ số phát thải ròng, yếu tố bảo vệ môi trường trong các sản phẩm nhập khẩu, vì vậy nếu doanh nghiệp Việt Nam không ứng xử nhanh chóng với các quy định này thì sẽ rất khó khăn trong vấn đề cạnh tranh trên thị trường quốc tế.
Theo Phó Thống đốc, để hỗ trợ mục tiêu chuyển đổi xanh của nền kinh tế, ngành Ngân hàng đã “đi tắt đón đầu”. Cụ thể từ năm 2017 khi mục tiêu xanh còn đang manh nha tại Việt Nam, ngành Ngân hàng với nghiên cứu thực tế và sự hỗ trợ của các tổ chức lớn trên thế giới đã ban hành nhiều cơ chế, chính sách thức đẩy tín dụng xanh. Đến năm 2022, cơ bản hành lang pháp lý cho tín dụng xanh vì mục tiêu phát triển bền vững đã có tuy chưa đầy đủ.

Tuy nhiên, bên cạnh nỗ lực của ngành Ngân hàng, cần thêm rất nhiều giải pháp từ nhiều bên liên quan từ trung ương tới địa phương để hỗ trợ mục tiêu phát triển xanh, trong đó có các khu công nghiệp xanh.
Chính vì vậy, tại Diễn đàn này, Phó Thống đốc mong muốn các chuyên gia, doanh nghiệp trong, ngoài ngành, các tổ chức tín dụng sẽ cùng trao đổi để làm rõ một số vấn đề như: Hiện đã có bao nhiêu khu công nghiệp đã và đang hướng về tiêu chuẩn của một khu công nghiệp xanh. Để đạt được mục tiêu đó thì các khu công nghiệp đang gặp khó khăn, vướng mắc gì, cần hỗ trợ gì về phía ngành Ngân hàng.
Bên cạnh đó, TS. Đặng Quang Hải - Trung tâm Công nghệ sinh học Đà Nẵng - kiến nghị: “Để khu công nghiệp xanh không chỉ là khẩu hiệu, cần luật hóa các tiêu chí KCN sinh thái, xác lập chính sách tín dụng xanh riêng và thiết lập hệ thống xác nhận ESG độc lập. Đó là cách để nâng cao năng lực cạnh tranh và khơi thông dòng vốn dài hạn cho nền kinh tế xanh”.
